Quần
thể di tích thắng cảnh Bát cảnh sơn nằm ở xã Tượng Lĩnh, huyện Kim Bảng, Hà
Nam. Từ thị xã Phủ Lý, theo quốc lộ 22 đi 13 km là đến quần thể danh thắng Bát
cảnh sơn (hoặc có thể đi từ Đồng Văn theo quốc lộ 60).
Xã
Tượng Lĩnh được thiên nhiên ưu đãi với địa hình tự nhiên có nhiều tiềm năng
phong phú. Dãy Bát cảnh sơn đứng bên tả ngạn sông Đáy, dựa lưng vào vòng cung
Nam Công (Kim Bảng – Hà Nam và Tuyết Sơn, Hương Tích – Hà Tây), tạo thành thế
núi hình sông kỳ thú.
Xét
theo tổng thể ở phạm vi rộng thì Bát cảnh sơn là một cụm du lịch của quần thể
Hương Sơn bởi hai thắng cảnh này rất gần gũi, tiếp giáp với nhau liền mạch
trong dãy núi đá vôi Hà Nam – Hà Tây. Theo vị trí địa lý hành chính. Bát cảnh
sơn là "tiểu thắng cảnh", là cửa ngõ Hương Sơn, nằm trong xã Tượng
Linh, nơi ngã ba của 3 huyện Kim Bảng (Hà Nam), Mỹ Đức, Ứng Hoà (Hà Tây).
Từ
lâu, dãy Bát cảnh sơn (dãy núi có 8 cánh) được coi là một thắng cảnh của trấn
Sơn Nam. Theo Lịch triều hiến chương loại chí (phần Dư địa chí) của Phan Huy
Chú thì vào thế kỷ thứ XVI, Nghị tổ Trịnh Doanh qua đây chiêm ngưỡng đã ví Bát
cảnh sơn với Tiêu Tương bên Trung Quốc và cho lập hành cung để đi về thưởng ngoạn.
Xưa
kia, ở Bát cảnh sơn có 8 ngôi chùa và một ngôi miếu thờ thổ đại thần linh được
bài trí xây dựng theo thuyết bát quái ngũ hành. Có thể do tám ngôi chùa mà vùng
núi này được đặt tên là Bát cảnh sơn? Ngày nay, mặc dù một vài cảnh quan đã bị
hủy hoại vì chiến tranh nhưng hàng năm khách vãn cảnh chùa Hương và khách du lịch
thập phương vẫn về thăm với một số lượng khá đông.
Bát cảnh sơn bao gồm:
1. Đền Tiên Ông (đền Ông)
Được
xây dựng vào đời vua Trần Nhân Tông trên lưng chừng núi Tượng Lĩnh, cao khoảng
200m giống hình con vui phủ phục (nhân dân thường gọi là voi quỳ). Tượng
Lĩnh là điểm đầu tiên trong hệ thống Bát cảnh sơn.
Tiền
đường được kiến trúc kiểu chồng diêm tám mái cong, 4 góc đầu dao hình rồng mềm
mại, mái lợp ngói nam đều đặn. Tòa trung đường xây kiểu hồi văn cánh bảng tam đấu,
hậu cung cuốn vòm. Ở đây còn lưu giữ được nhiều thần phả, sắc phong và nhiều đồ
thờ tự quý hiếm như hoành phi, đại tự, câu đối, bát hương bằng đá, bằng đồng. Đặc
biệt ở đây còn có 2 pho tượng, 1 bằng gỗ, 1 bằng đồng được thờ trong hậu cung.
Đền
Tiên Ông thờ Nam thiên đại thành hoàng Thánh tổ Thiên vương Bồ Tát. Sự tích
Tiên Ông được truyền thuyết kể rằng cha của Tiên Ông quê ở Từ Sơn (Bắc Ninh),
là quan to trong triều nhà Trần, có tới 23 thê thiếp mà vẫn chưa có con trai.
Đến
khi đi kinh lý ở trấn Sơn Nam, tại xã Thịnh Đại (nay là xã Đại Cương) huyện Kim
Bảng, thân phụ ngài lấy tới thê thiếp thứ 24 mới sinh được ngài. Ngài sinh ra
đã có tướng mạo khác thường, lớn lên chỉ một lòng đèn hương thờ Phật. Ngài chu
du khắp nơi tìm thầy học đạo.
Địa
linh nhân kiệt, Bát cảnh sơn không chỉ nổi tiếng là danh thắng mà còn nổi tiếng
về người hiền tài. Huyện Kim Bảng có 5 nhà khoa bảng thì Tượng Lĩnh có tới 3
người. Tượng Lĩnh còn được coi là nơi phát tích truyện trầu cau vì ở đây còn có
suối Cau trong dãy núi đá vôi (nay gọi là suốt Tân Lang), có chợ trầu (này là
chợ Dầu).
Vào
một ngày, ngài đến khu Quang Thừa (nay là xã Tượng Lĩnh) thấy dãy Bát cảnh sơn
hùng vĩ bèn lập một ngôi chùa dưới chân núi động Tam Giáo để thờ Phật và thờ tổ
tiên cha mẹ, gọi là chùa Tam Giáo. Sinh thời ngài có rất nhiều công lao đối với
nhân dân địa phương như cứu giúp kẻ nghèo khó, chữa bệnh cứu người.
Khi đắc
đạo, ngài hóa thân vào cây "Đại nại" và dặn rằng hãy lấy cây gỗ đó để
tạc tượng thờ, còn lấy đồng tạc tượng thờ thần. Dân nhớ ơn lập đền thờ tạc tượng
gỗ và tượng đồng theo lời dặn của ngài.
Các
pho tượng rất linh thiêng, trải bao lần đền bị chiến tranh giặc giã phá hủy,
pho tượng đã nhiều phen bị mang đi nhưng không ai đụng tới được. Nguyễn Hữu Chỉnh
cũng đã mang tượng đồng ở đền thờ ngài đi đúc tiền đồng nhưng búa rìu không chạm
được vào tượng, tượng chỉ đổ mồ hôi, còn quân lĩnh chạm vào tượng thì bị rìu chặt
vào chính chân mình.
Nguyễn
Hữu Chỉnh sợ hãi khấn rằng, nếu Ngài linh thiêng thì hãy cho sông Châu bên mưa,
bên tạnh. Quả nhiên là ứng nghiệm. Cuối cùng, Nguyễn Hữu Chỉnh phải sai quân
lính mang tượng trả lại về đền. Nhiều vị vua, chúa như Lê Thái Tổ, Lê Dụ Tông,
Trịnh Doanh, Trịnh Tùng, Trịnh Sâm, Mạc Phúc Hải đã tới thăm đền. Tương truyền,
Lê Quý Đôn, Nguyễn Huy Oánh là con cầu tự của ngài.
Nhớ
ơn ngài, cứ đến ngày rằm tháng 6 hàng năm, hai làng Thịnh Đại, Quang Thừa tổ chức
lễ hội rất long trọng, khách thập phương ở nhiều nơi cùng về tham dự.
2. Chùa Ông
Phía
trước đền Tiền Ông là một hồ nước lớn hình bán nguyệt bao quanh phía bắc núi Tượng
Lĩnh. Hồ có diện tích 320 mẫu, có nước quanh năm, độ sâu trung bình là 4 đến
5m. Truyền thuyết kể lại trước đây ở giữa hồ có một ngôi chùa, gọi là Chùa Ông.
Năm 1901, do ảnh hưởng của lũ lụt, chùa bị cuốn trôi. Hiện nay, hồ có nhiều loại
cá to, diện tích mặt nước có thể khai thác du thuyền và câu cá.
3 Chùa Tam Giáo
Từ đền
Tiên Ông, men theo sườn núi khoảng 1km là đền chùa Tam Giáo, Chùa Tam Giáo xưa
kia có hàng trăm gian với hàng trăm pho tượng Phật uy nghi tráng lệ. Truyền
thuyết kể rằng, khi xây dựng chùa, có rất đông thợ làm. Tiên Ông có nồi cơm và
lọ muối vừng hết lại đầy.
Chùa
được xây dựng dưới chân núi, ở đây có một suối nước chảy từ lòng núi ra, tương
truyền, dòng suối này mỗi ngày chảy ra hai bát gạo và hai đồng tiền đủ cho nhà
sư sinh sống. Sau có kẻ tham biết chuyện đã đục cho miệng suối rộng ra, từ đấy
gạo tiền không chảy ra nữa.
Trong
thời kỳ kháng chiến chống Pháp, chùa là căn cứ hoạt động của các đồng chí lãnh
đạo Trung ương và tỉnh, chùa từng là kho tiếp liệu của công binh xưởng Liên khu
III, lại vừa là Văn phòng thường trực Liên khu ủy và Ủy ban kháng chiến Liên
khu III những năm 1947– 1950. Trên đường từ đền Tiên Ông đến chùa Tam Giáo trước
đây có rất nhiều hang động đẹp, đến nay do biến động của thiên nhiên, do sự
khai thác của con người, nhiều hang đã bị phá hủy.
Chùa
Tam Giáo mới được khôi phục lại những năm gần đây. Chùa hình chữ đinh, có 5 gian
đại tế và một hậu cung, đại tế tạo 8 mái chồng diêm, lợp ngói nam.
4. Chùa Kiêu, chùa Bà, chùa Dâu, chùa Cả, chùa Bông, chùa Vân Mộng
Tất
cả những ngôi chùa trên từng tạo thành một quần thể vừa linh thiêng, vừa là
danh thắng đẹp mắt. Tiếc rằng, cho đến nay, 6 ngôi chùa kể trên đều không còn,
có chùa đã bị san bằng, có chùa chỉ còn lại nền móng.
Cách
chùa Tam Giáo 150m đi ngược lên đỉnh núi là chùa Kiêu. Chùa Kiêu nằm trên đỉnh
núi cao, từ đây có thể bao quát một vùng rộng lớn phía đông nam xã Tượng Lĩnh. Hiện
nay chùa chỉ còn nền móng và một động nhỏ rộng 10m2.
Dọc
đường có 3 tấm bia khắc vào vách núi. Bên cạnh động có khối đá vuông mặt nhẵn
nhụi trên có ghi chữ Hán: "Nhật nguyệt trường quang". Tục truyền ngày
xưa cứ đêm trăng sáng, Tiên Ông cùng ngồi đánh cờ với các quan nhà trời.
Từ
chùa Kiêu, vượt qua đường đèo và 3 thung lũng, qua 5 ngọn núi là đến chùa Vân Mộng.
Tương truyền chùa Vân Mộng là nơi mà Thiền sư Nguyễn Minh Không đã từng tu hành
và trụ trì. Ngôi chùa cũng đã đi vào sách vở với ghi chép của Lê Quý Đôn trong
Vân đài loại ngữ. Tục truyền, vua nhà Lý bị đau mắt không thuốc nào chữa khỏi.
Nghe
tin ở chùa Vân Mộng có Quỷ Cốc tiên sinh thông tuệ thiên địa bèn đến cầu thì được
biết nhà vua đau mắt là do động huyệt xoáy rồng ở khúc sông Hồng, cần có người
hiến tế thì nhà vua mới khỏi bệnh. Sau có ông bà bán dầu Vũ Phục nhảy xuống
sông, quả nhiên nhà vua lành mắt.
Chùa
Vân Mộng nằm trên sườn núi chênh vênh quyện cùng khói mây huyền ảo, xung quanh
có rất nhiều hang động lớn nhỏ kỳ thù bí ẩn, có những hang sâu 30m, rộng khoảng
300m2 như hang Dơi, hang Bạc, hang Vàng… Từ đây có thế đến thung Bế, thung Vạc
của xã Tân Sơn.
Hiện
nay chùa chỉ còn nền móng cũ và một vài hiện vật như bia khắc vào vách núi, bát
hương đá, đá tảng kê chân cột. Phía tây chùa có núi Hai Quả cao chót vót, lưng
chừng núi có hang Dơi, vì ở đây có rất nhiều dơi đến trú ngụ, có những con to
như cái quạt giấy. Cửa hang hình miệng rồng, hang sâu 50m. Đặc biệt trong hang
có một hồ nước nhỏ, vòm hang có nhiều nhũ đá tự nhiên với nhiều hình thù kỳ lạ,
đẹp mắt.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét