DÂN TỘC Ê ĐÊ
I.
ĐẶC ĐIỂM CHUNG:
Người Ê Đê cư trú ở miền trung
Tây Nguyên từ rất lâu đời(điều này đã được ghi trên bia ký của người Chăm),có
khoảng 270 000 người sống chủ yếu ở Gia Lai , Phú Yên, Khánh Hòa,nhưng nhiều
nhất vẫn là ở Đăk Lăk. Người Ê Đê có nhiều nhóm người địa phương khác nhau
như:Ê ĐÊ KPĂ, ADHAM, M’DHUR, K’TUL, BLÔ, K’RUNG, BIH, ÊPAN,H’WING, DLIÊ RUL,
KAH, KDRAO, DONG MAK, Ê NING,ARUL… nhiều nhóm được nhắc đến trong thư tịch
trước đây nhưng đến nay không còn được nhắc đến nữa. Số nhóm địa phương đã ít
đi và sự phân biệt đã phai nhạt dần. Với trên 30 dòng họ khác nhau định cư rải
rác trong gần 600 buôn thuộc các huyện như : CƯ M’GAR, K’RONG PÁCH, M’DRĂK,
K’RÔNG BÔNG, K’RÔNG BUK, EA HLEO, K’RÔNG H’NĂNG, EA KAR, LAK, KRÔNG ANA, thành
phố Buôn Ma Thuột, và một số ít ở các huyện CƯ JUT, BUÔN ĐÔN,EA SÚP…
Người Ê ĐÊ thuộc nhóm ngôn ngữ
Malayô – Pôlinêxia (ngữ hệ Nam
đảo).Họ tự gọi mình là “ANAK Ê ĐÊ” (người Ê ĐÊ) những dân tộc xung quanh gọi họ
là RAĐÊ nhưng không phổ biến nên Ê ĐÊ
trở thành phổ biến cho một tộc danh. Tộc danh này được giải thích là thuật ngữ
chỉ những người sống trong rừng tre,( Ê TÊ hay Ê ĐÊ) hoặc tộc danh đó là một
tên gọi của một vị thần tối cao trong tín ngưỡng dân gian là AE, DIE …(Và còn nhiều cách giải thích khác
nữa). Là ngôn ngữ có quan hệ
gần gũi với tiếng Gia rai, Chăm, Malaisia, Inđônêsia, Philipin, tiếng Ê đê ngày
nay phát triển 1 âm tiết đơn lập. Đây là kết quả của sự ảnh hưởng tiếng
Môn-khmer, Khmer, Lào, Việt ,Pháp. Trong lễ hội họ vẫn sử dụng tiếng Ê ĐÊ kpă
(Ê ĐÊ gốc). So với các dân tộc ít người
khác tại Việt Nam ,
người Ê Đê là sắc dân có chữ viết theo bảng chữ cái La tinh khá sớm, người Ê ĐÊ
có chữ viết từ thập niên 1920.
II.
SINH HOẠT KINH TẾ:
1. Nông nghiệp :
Trong nông nghiệp truyền thống,do
sống ở Tây Nguyên nên Rẫy( HMA) chiếm vị trí trọng yếu và là nguồn sống chính.
Ruộng nước chiếm một tỷ lệ không lớn lắm chỉ có ở vài nơi,đặc biệt là ven các
vùng sông suối, hồ…chủ yếu là người BÍH làm theo lối cổ sơ dùng đao canh
hoả chủng nói chung người Ê ĐÊ thường làm rẫy ở các
khu vực đất bằng phẳng gần nguồn nước. Riêng ở phía Tây, rẫy được làm trên các
rừng xavan gọi là HMA H’DRAH. Còn ở vùng trung tâm, rẫy được làm trên các đồi
tranh. Khi khai phá, đồng bào coi trọng việc quan tâm bảo vệ rừng tránh tình
trạng làm tất cả trở thành đồi trọc và hủy diệt giun đất. Bên cạnh những rẫy
đang canh tác thì vẫn còn những vạt đất còn những vạt đất còn nhiều cây ( họ
coi đó là cách chống xói mòn đất đồng thời cũng là để khai thác lâu dài).
Phát rẫy là công việc chính đầu
tiên khi khai phá nương rẫy vào khoảng tháng 4 bằng cách đốt những cây khô rồi
sau đó dọn và cuốc đất rồi cuối cùng là chọc lỗ và tra hạt( đao canh hỏa chủng).
Trên rẫy lúa là cây trồng chính nhưng trước kia cây Bao (một loại kê) được
trồng phổ biến. Dù rẫy bằng hay rẫy dốc thì người ta hay dùng gậy chọc lỗ để
tra hạt do từng cặp nam nữ tiến hành. Khoảng cách giữa các lỗ phụ thuộc vào độ
phì nhiêu của đất nhưng nói chung các hốc cách nhau khoảng 0,20× 0,20 m hay
0,30× 0,30 m , hốc có độ sâu từ 0,03 đến 0,05 m. Ngoài lúa, trên rẫy đông bào Ê
ĐÊ còn trồng cả ngô, khoai, bí, dưa, ớt, thuốc lá, bông… ngô và khoai lang cũng
được trồng trên những mảnh rẫy riêng. Các hốc
ngô cách nhau 0,80 × 0,80 m ,mỗi hốc có 3 cây. Khoai lang trồng ngay trên
đất bằng ít khi đánh luống. Riêng các loại hạt giống bầu,bí, dưa,bông thì được
trộn cùng với lúa giống để gieo một lúc hoặc để riêng để gieo vào những chỗ có
nhiều tro. Việc xen canh các cây trồng với cây lúa không những tận dụng được
đất đai mà còn có thêm sản phẩm và thuận tiện cho việc chăm sóc. Đối với các
rẫy bằng người Ê ĐÊ thường đào hào xung quanh ngăn cản thú rừng cào phá hoại
hoa màu, họ còn đặt một số bẫy thú xung quanh, trên rẫy thì đặt bù nhìn và mõ(
nhờ sức gió tạo âm thanh) để xua đuổi chim muông.
Cách sử dụng đất đai của hầu
hết các dân tộc Tây Nguyên nói chung mà Ê ĐÊ nói riêng là luân khoảnh tức là
bên cạnh những mảnh đất đang canh tác có những mảnh đất bị bỏ hoang trong thời
gian dài để khôi phục độ màu mỡ của đất. Tùy thuộc vào chất đất mà có thể canh
tác liên tục theo chu kỳ 5 , 10, 15 hay 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Rẫy làm liên
tục nhiều năm sẽ bị bạc màu và có nhiều màu. Nhưng rẫy của đồng bào Ê ĐÊ là rẫy
cuốc nên không có cỏ nhiều. Nhưng ngày nay đồng bào đã biết bón phân hóa học
nên đã giảm bớt số rẫy luân khoảnh và yêu cầu định canh thâm canh. Người Ê ĐÊ còn gắn mình với sản xuất cây công
nghiệp như cà phê, cao su, hồ tiêu, ca cao…
Cùng với việc canh tác trên rẫy
từ lâu nông nghiệp nước đã xuất hiện ở vùng hồ Lak, ven các con sông Knô và
Ana. Tại các ruộng nước họ dùng phương pháp đao canh thủy nậu tức là khi có mưa
phù sa thấm nước nên mềm hơn bấy giờ họ đưa đàn trâu đến quần cho cỏ dập nát và
vùi xuống sâu, bùn nhuyễn ra. Đó là phương pháp canh tác đơn giản nhất trông
lịch sử nông nghiệp. Nhưng việc đắp bờ giữ nước ít được chú trọng. Lúa nước
cũng có nhiều loại tẻ, nếp, dài ,ngắn ngày khác nhau. Khi gặt thì phơi lúa ngay
trên gốc rạ rồi vò dần lấy thóc đem về.
Cách thu hoạch rất đơn giản,lúa
tẻ thì suốt bằng tay,bỏ vào cái giò đeo ở ngang hông,lúa nếp thì dùng liềm gặt
rồi bó thành cụm mang về, khi cần mới vò lấy hạt, cũng có giống lúa tẻ phải
dùng liềm gặt, họ cắt thành từng nắm phơi trên rẫy ít lâu
rồi đánh đống lại khi cần mới vò lấy hạt. Khi thu hoạch người ta chọn
những hạt to,mẩy làm hạt giống (giống BLAMA ) hầu hết các giống lúa rẫy đều là
những giống lúa sinh trưởng dài ngày phù hợp với lối canh tác thô sơ trên đất
khô.
Công cụ làm rẫy cũng như ruộng
của người Ê ĐÊ thường giống nhau và ít kiểu loại nhưng cũng rất độc đáo. Phổ
biến là rìu, chà gạc, wăng briêng, cuốc, wăng wít, gậy chọc lỗ, ống đựng thóc,
tra hạt, cào,gùi, giỏ suốt lúa…
-
Rìu có cùng một kiểu loại với rìu của các dân tộc ở nước ta dung
để chặt cây, phát rẫy, làm nhà, làm dụng cụ gia đình.
-
Chà gạc (Kgă) là một
lưỡi dao thép tra dựng đứng vào gù một cái cán cong bằng lồ ô đặc. Chà gạc dùng
trong sản xuất, chiến đấu, xây dựng nhà cửa và cũng là một công cụ của nhà bếp.
-
Wăng briêng là một loại cuốc lưỡi sắt nhỏ,
hình trăng lưỡi lèm, tra vào cán gỗ cong, dùng để xới đất. Hiện nay, đồng bào
dung cuốc bản ( gọi là wăng cuốc) để
xới đất, phần nhiều đã được thay thế công cụ truyền thống: wăng briêng. Để
thích hợp với kinh nghiệm sản xuất của mình, đồng bào cắt hai gốc của rìa tác
dụng lưỡi cuốc bản làm cho lưỡi cuốc đó gần giống lưỡi cuốc truyền thống.
-
Wăng wít là cái nạo cỏ rẫy, lưỡi sắt,
được bẻ gập va vạn vỏ đỗ, một đầu cắm vào cán gỗ. Đối với người Ê đê, cuốc đóng
vai trò quan trọng trong sản xuất, khiến có thể nói rằng, hình thái nông nghiệm
cuốc đã tồn tại ở họ.
-
Cào cỏ (hwar) là một
thân tre nhỏ, dài khoảng 1m50, một đầu trẻ làm 6 hay 8 nan, đan xoè hình giẻ
quạt, khi cào thì đứng.
-
Ống đựng thóc tra lúa (đing
nuh) là một khúc lồ ô dài khoảng 0,80m.
Mặc dù phương pháp canh tác thô
sơ,công cụ giản đơn nhưng do đất đai màu mỡ và được làm đúng thời vụ nên thu
hoạch được một khối lượng nông sản đáng kể.
Người Ê đê không tính theo lịch
dương, lịch âm mà dựa vào sự vận động của mặt trời (ngày), mặt trăng (tháng) và
mùa rẫy (năm). Tuy vậy người ta vẫn chia 1 năm thành 4 mùa (yan) có tên gọi :
yan mnga (mùa xuân), yan mhang(mùa hạ), yan mjao(mùa thu), yan puit(mùa đông).
Còn thời tiết diễn biến theo thực tế thì chỉ có 2 mùa khô (tháng 1-4 năm sau)
và mùa mưa(tháng 5-10).Người ta định lịch làm ăn 1 năm là 12 tháng (mlan)theo
12 lần trăng.Ví dụ : tháng 1 của người Ê đê tương ứng với tháng 4 dương lịch.
So với phương pháp trồng trọt
nguyên thủy :phát, đốt tràn lan ,tiện đâu làm đó thì cách canh tác rẫy theo chế
độ luân khoảnh có nhiều ưu điểm hơn nhưng vẫn là một lối quảng canh chưa đi vào
thâm canh tăng năng suất, vẫn còn phụ thuộc vào tự nhiên.
2.chăn nuôi:
Chăn nuôi ở gia đình được chú ý
phát triển. Đa số đồng bào nuôi gà,vịt, ngan, ngỗng, lợn, dê, trâu, bò, và một
số út gia đình giàu có nuôi cả voi. Hầu hết các gia đình có đàn gia cầm nhiều
con,hàng chục đầu lợn. Việc chăn nuôi gia súc gia cầm là để có thực phẩm dùng
trong ma chay, cưới hỏi và cúng bái. Theo quan niệm của người Ê ĐÊ hiến sinh
nhiều súc vật trong các nghi lễ là vinh dự trọng đại,là mục tiêu mà người ta
cần đạt tới để khẳng định vị trí xã hội của mình. Trâu,bò càng được chú ý nuôi nhiều vì đó là đặc trưng cho sự giàu
có và là vật định giá trong mua bán cồng chiêng, ché, cho nên xưa kia có những
gia đình lớn nuôi hàng trăm con. Voi cũng là đặc trưng quan trọng của sự giàu
có. Người có voi được coi là có số làm ăn. Voi dùng để vận chuyển và làm sức
kéo đồng thời cũng là vật định giá trong mua bán trao đổi những tài sản lớn.
3.Nghề Phụ:
3.1.hái lượm và săn bắn:
Do có điều kiện thuận lợi nên
cách đây không lâu, hái lượm và săn bắn còn chiếm vị trí quan trọng trong đời
sống kinh tế của người Ê ĐÊ. Đồng bào lấy rau rừng, mật ong, hoa quả ,tre gỗ làm nhà và dụng cụ
gia đình. Săn bắn chim thú cũng đem lại một số lượng thịt đáng kể. Ở nhiều nơi
đồng bào có thịt chim thú ăn gần như quanh năm.Nhưng hiện nay người dân đã biết trồng trọt, chăn nuôi tại gia
và diện tích rừng và số lượng động thực vật cũng giảm dần nên việc săn bắt hái
lượm đã ít đi.
Người Ê đê có nhiều cách săn bắn.Săn tập
thể do Ava Gắp - người đứng đầu nhóm săn bắt chỉ huy.Người ta chỉ săn đêm khi
có đèn săn, tổ chức vây khu vực chắc chắn có thú, bố trí người lùa 3 phía để 1
phía chặn đầu đón lõng, bắn nỏ. Đây là lối săn vây. Còn cách săn đuổi thì có 1
tốp người đuổi thú làm ầm ĩ, gõ mõ, đập dao, kêu la, làm cho thú hoảng hốt chạy
theo lối đã định và cũng có tốp đón, bắn nỏ. Thời xưa còn có cách sắn nữa là
đốt lửa 1 khu rừng nhỏ,lùa thú ra người săn phục sẵn ở bìa rừng. Nhưng lối này
nay ít dùng vì hiệu quả không lớn dễ gây cháy rừng.
Phân chia thú rừng : người bắn trúng con
mồi được phần lướn nhất : đầu, thân, bộ lòng (tim, gan, phổi...), mọi người đi
săn được phần bằng nhau,người bắn trúng cũng được một xuất chung này.
3.2. đánh cá:
Đánh cá cũng đem lại nguồn lợi
không nhỏ ở những vùng gần hồ, sông,suối… nhiều gia đình không những có cá ăn
quanh năm và còn có cá sấy khô để đổi lại muối, vải, lụa… săn bắn và đánh cá là
những hoạt động được ưa thích đồng thời biểu hiện tài năng của nam giới( những
người giàu kinh nghiệm về mặt này luôn có niềm vinh dự trong làng)
3.3.nghề thủ công:
Hoạt động của các nghề thủ công
tuy chưa tách khỏi kinh tế nông nghiệp nhưng đã làm ra những sản phẩm cần
thiết. Xưa kia,khi giao thông chưa thuận lợi,sự trao đổi hàng hóa bị nhiều hạn
chế nên công cụ sản xuất và đồ dùng phần lớn là đồng bào tự làm lấy.Phần lớn người dân tự làm đồ đan lát, bát
đồng, đồ gỗ, đồ trang sức, đồ gốm…Nghề rèn có
thể làm lười rìu, chà gạc , các loại
lưỡi cuốc ,mũi lao dùng cho săn bắn. Người ta còn làm được đồ trang sức bằng
đồng,làm đồ gia dụng bằng tre,dệt chiếu,dệt và nhuộm vải… một vài nơi còn có
nghề làm nồi đất để nấu cơm làm âu đựng thức ăn. Nhưng hiện nay ột số nghề thủ
công đang mai một dần (như gốm, dệt) ,một số nhóm nghề khác ( rèn, đan lát,đồ
gỗ) vẫn còn tồn tại và đóng vai trò quan trọng trong đời sống ở địa phương.
Nghề dệt thổ cẩm của người Ê ĐÊ : để tạo nên những tấm
thổ cẩm đẹp thì sợi bông chính là nguồn nguyên liệu chủ yếu. Xưa kia bông
thường được trồng ở khắp nơi trên đất của đồng bào Ê ĐÊ ; đất rẫy, đất thổ,
gieo hạt vào tháng 2, 3 thu hoạch vào tháng 6, 7 hàng năm. Công đoạn sơ chế gồm
nhặt bông, cán bông, lăn con cúi, kéo sợi, chế biến sợi, nhuộm màu, cuối cùng
là mắc sợi chỉ vào khung dệt dụng cụ dệt vải là những bộ phận rời go dài trên
1m để luồn sợi dọc và dập sợi ngang. Khi dệt họ ngồi trên nền đất, 2 chân duỗi
thẳng đạp lên 1 thanh gỗ nằm ngang để căng mặt sợi trên khung dệt, tất cả các
đầu sợi được gộp lại buộc vào cây cột nhà hay một gốc cây. Khi dệt người thợ
dùng chân và lưng của mình làm căng dàn sợi, 1 tay giật co, 1 tay giật thoi.
Trong quá trình luồn sợi chỉ vào khung dệt, để tạo hoa văn người dệt sắp xếp
trật tự màu sắc của sợi vải hợp thành thảm dọc ứng với kiểu trang trí được lựa
chọn. Chính vì dệt thủ công nên thời gian hoàn thành sản phẩm rất lâu thậm chí
kéo dài tới vài tháng. Những hoa văn trên nền vải có
nhiều mô típ liên quan đến động vật và thực vật. Đó là: chim dang cánh, bọ cạp
ấp con, trứng thằn lằn, bầy ong bám cành cây, trứng chim đại bàng...Bên cạnh
những hoa văn đó, là những hoa văn phản ánh sinh hoạt kinh tế: hoa ngô, hột
dưa, cần uống rượu, con chỉ, đuôi mũi tên...Và cũng có những hoa văn liên quan
đến tôn giáo tín ngưỡng như dây treo chiêng, cột nhà mồ, mặt trăng. Phần lớn
hoa văn trên nền vải là những đường hình học. Màu trang trí của hoa văn nổi bật
nhất là màu đỏ, thứ đến là màu trắng đục, nâu tươi, vàng óng, vàng úa, xanh lá
cây, xanh nước biển, xanh rêu cau.
Nghệ thuật điêu khắc của người Ê đê nay
còn rất ít, chủ yếu là chạm khắc tượng nhà mồ, cầu thang, cột . Họ chạm khắc
bằng các công cụ rất thô sơ như chà gạc, wăng wit, rìu…Trên các xà ngang của
các nhà giàu hiện còn chạm khắc rất nhiều hình các con vật như rùa, kỳ đà,voi…
do ngày xưa người Ê đê sống ở gần biển (đảo) nên họ chạm khắc các con vật này
để lưu giữ lại truyền thống xa xưa, đây cũng là một trong những yếu tố còn lại
của biển của người Ê đê. Hình khắc đôi bầu vú xuất hiện hầu khắp trong nhà của
người Ê đê thể hiện uy quyền của người mẹ trong gia đình, đồng thời biểu trưng
cho chế độ mẫu hệ của người Ê đê.Còn hình vầng trăng khuyết khắc trên bậc thang
và các đôi cột là để thể hiện sự mong muốn sự đầy đủ, đi lên, người Ê đê không
khắc vầng trăng tròn bởi nếu đã trăng đã tròn thì sau đó sẽ khuyết dần rồi đi
xuống vì vậy người ta luôn khắc hình trăng khuyết.Trên các cột nhà ta cũng thấy
các hình cây cỏ thể hiện sự gần gũi với thiên nhiên.Ngày xưa người Ê đê có tục
chôn nô lệ theo hầu người chết (đối với nhà giàu) nhưng sau đó thay bằng tượng
nhà mồ với ý niệm về việc cần phải có người theo hầu người chết sau đó ý niệm
này không còn mà thay bằng ý nghĩa trang trí xung quanh nhà mồ nên việc thể
hiện hình tượng và nội dung các bức tượng cũng phong phú và đa dạng hơn.Phong
cách của các bức tượng này một số thể hiện tính chất hoạt động và trần thuật,
một số thể hiện tính gợi tả và sống động như tượng Phụ nữ giã gạo ở easol – eahleo
– Đak lak – Bảo tàng Dak lak, tượng người đánh trống cao 94 cm ở Phú Yên – bảo
tàng Mỹ Thuật, tượng múa trống cao 61 cm Phú Yên – Bảo tàng Mỹ thuật…
Do có 2 mùa rõ rệt: mùa khô và
mùa mưa nên hoạt động kinh tế cũng theo từng mùa. Trước đây vào mùa khô bên
cạnh việc làm nghề thủ công thu hái, săn bắt tổ chức các nghi lễ gia đình … vào
mùa mưa hoạt động nông nghiệp là chính và trong mỗi tháng họ phân chia công
việc làm cụ thể:
Ví dụ: -Mlan sa
(tháng giêng) :phát rẫy,dệt vải,ăn tết Mnăm thun
-Mlan dua (tháng hai) :phát rẫy , dệt vải ,ăn tết bỏ mả
-Mlan tlao (tháng ba) : - nt –
-Mlan pa (tháng tư) :đốt và dọn rẫy
-Mlan ema (tháng năm) :dọn rẫy ,xới đất, tria lửa
-Mlan năm (tháng sáu)
:trỉa lúa
-Mlan kjuk (tháng bảy)
:trỉa lúa,làm cỏ lúa
-Mlan sopăn (tháng tám) :làm cỏ phát và cuốc rẫy mới
III.Văn hoá vật thể:
1.Kiến Trúc :
Người Ê đê sống trong các ngôi
nhà dài thậm chí có thể kéo
dài tới hàng trăm mét, nhưng hiện nay chỉ còn nhà dài khoảng 30,40 m. Độ mươi nóc nhà quần tụ hai bên con đường tạo thành một
buôn (làng). Ngôi nhà dài của người Ê đê là nhà sàn, làm bằng các nguyên liệu
sẵn có của núi rừng : khung nhà bằng gỗ, xương mái và sàn nhà bằng tre nứa, mặt sàn và vách ngăn
bao quanh bằng nứa, mái nhà lợp tranh (gần đây lợp tôn).
Nhà ở của người Ê đê có đòn nóc
làm theo hướng Bắc-Nam, tránh gió Đông-Bắc vào mùa khô và gió Tây Nam vào mùa mưa, đồng thời tránh gió thổi vào bếp khách gây cháy nhà,khác
với nhà mồ của họ dựng theo hướng Đông-Tây, một sood nhà có mái nhỏ ở hai đầu
hồi che cột hiên. Mái nhà dài nằm cắt ngang đường đi của mặt trời nên
tránh được giờ chiếu nắng cao nhất trong ngày. Phên
dựng ở hai đầu hồi thẳng đứng, còn phên ở dọc
theo chiều dài nhà thì ngả ra hai bên, nên nhìn từ xa ngôi nhà có hình dáng một cái
thuyền.
Khi nói tới chiều dài thì đồng
bào nói tới số lượng dầm ngang (đê)
tương ứng với một đôi cột. Nhà bao nhiêu đê
là bấy nhiêu gian. Đáng chú ý là nhà chỉ có vì cột, gồm cột, dầm, quá giang,
không có vì kèo, do đó khung nhà và mái nhà là hai bộ phận tách rời nhau ghép lại.
Đồng bào khoét ngoàm để đặt đôi xà dọc lên
hàng cột cái, quàng quá giang lên đôi xà dọc, để dầm ngang và cột ốp vào nhau.
Xà ngang dài từ 3,2-3,4 m, cột
cao 3,6-4 m, lòng nhà rộng từ 4,5-5,3 m. Bộ xương mái
gồm một lớp kèo giả, những hàng đòn tay, rui, mè và trên cùng là tranh. Tranh
lợp từng côm, ngọn thả xuôi mái, gốc bẻ gập xuống để cây đòn tay chèn giữ phía
trên. Bộ khung nhà của người Ê đê cũng hình thành trên cơ sở các vì cột. Do vậy
bộ khung nhà với bộ nóc là hai bộ phận riêng. Nóc úp trên bộ khung cột. Mỗi vì
cột chỉ có : hai cột (kmek), một quá
giang (êđa) và các vì cột chung nhau
hai đòn tay cái đặt ở đầu cột.
Kết cấu mặt sàn (tul): dưới cùng là các dầm ngang cũng
có tên gọi là đê cũng như tên quá
giang. Đặt trên các dầm ngang là các dầm dọc (gắp) thường là các cây gỗ có đường kính nhỏ hơn. Trên dầm dọc đặt
một lớp cây nhỏ (t’rung) song song
với các dầm ngang ở bên dưới. Trên lớp cây này lại được trải một lớp những
thanh tre (hoặc lồ ô) nhỏ bản (nê) cùng chiều với dầm dọc. Trên cùng là lớp dát
sàn (trịa) làm bằng lồ ô hay tre
rừng… bổ banh thành từng phá, và được đập dập.
Bộ sườn của mái, lớp dưới là
các “kèo giả” (kèo không ráp vào đầu cột) (mal).
Trên kèo là các đòn tay, trên nữa là rui rồi đến mè, trên cùng là lớp cỏ tranh.
Tuy mái lợp tranh, nhưng cách lợp của người Ê đê khá chắc chắn : gốc các phên
tranh được đặt vào các đòn tay nhưng quay xuống dưới buộc đè cây mè lên trên,
rồi người ta mới bẻ quặt ngọn phên tranh xuống phía dưới. Đến lượt các phên
tranh khác người ta cũng làm như vậy. Với cách lợp này, các lá tranh không thể
tụt ra khỏi phên.
Nhà của người Ê đê phổ biến là
có hai mái chính. Nhưng có nhà có thêm hai mái phụ ở hai đầu hồi thụt sâu vào
hai mái chính để tránh hắt mưa vào nhà.
Đó là cách kết cấu vì cột, mái
và cách lợp mái theo kiểu cổ truyền. Hiện nay, ở một số nơi người ta đã làm
nhà theo kiểu vì kèo, mái lợp “tôn”,
hoặc lợp ngói và nóc có bốn mái như nhà người Việt.
Nhà có hai cửa: cửa phía trước
dành cho khách và nam giới, cửa sau dành cho phụ nữ. Sát với hiên là sàn, nhưng
sàn khách dài gấp đôi sàn sau. Cầu thang (ênhan)
phía sàn khách đối với nhà dân, chỉ là một khúc gỗ tròn đẽo khoảng 7 bậc bằng
gỗ tốt như giáng hương hay cẩm lai rộng khoảng 0,8-1 m:
đối với nhà giàu là những tấm ván có bậc đầu đẽo uốn về phía trước như đầu một
con thuyền với những hình khắc nổi như trăng khuyết, đôi vú đàn bà. Có nhà dựng
ba cầu thang ở phía trước, một chính hai phụ. Có khi cầu thang phụ khắc hình
ngà voi thay cho đôi vú đàn bà. Trên sàn khách ở những nhà có thế lực, nuôi voi
còn để hai ghế sàn thẳng từ hai cột sàn nhô lên (kpan adring) cao hơn mặt sàn 0,50 m. Có gia đình còn làm thêm sàn
ở phía Tây có cầu thang lên xuống dành cho trai gái ngồi trò chuyện.
Không gian trong nhà theo chiều
dọc gồm hai phần rõ rệt:

Từ cửa chính đi vào là một phần rộng, chiếm 1/3 hoặc
2/5 gọi là gah, phần còn lại là ôk. Gah là nơi tiếp khách, có bếp cho
khách (kpur gah) và là nơi sinh hoạt
chung của gia đình, nơi cúng thần, chỗ ngủ cho con trai chưa vợ, nơi đặt nhiều
đồ vật quý. Gah và ôk được ngăn bởi
vì cột kmeh kpăng có khắc hình, trong
đó cột phía Đông là cột chủ, bên cạnh kê một phản độc mộc để người đứng đầu gia
đình ngồi khi có hội họp; cột phía Tây là cột trống (kmeh hgơr), nơi đặt trống cái trên ghế kpan, ghế của nhạc công ngồi đánh chiêng, đánh trống.Ghế Kpan làm nguyên từ 1 thân cây cổ thụ lớn cao 0.45m - 0.50m, dài 10 - 20m, rộng 0,6-0,8 m, một
đầu cong lên như hình mũi
thuyền. Gầm ghế thường để chiêng, cồng sát
vách sau hàng cột phía Đông là nơi để một hàng ché. Bên cạnh bếp khách, có một
bếp dùng nấu ăn khi có lễ nghi (kpur tuk
chim). Xưa kia,ở gian gah, nhiều
nhà còn có bếp cho trai gái trò chuyện (kpur
êdam êra). Diện tích ôk theo
chiều dọc phía Đông là những buồng ngủ cho từng cặp vợ chồng, có phên ngăn,
theo thứ tự: buồng thứ nhất từ cửa sau vào là của vợ chồng người đứng đầu gia
đình, tiếp đến là buồng để đồ dùng, cũng là buồng dành cho con gái út, người
thừa kế gia đình khi lấy chồng thì sử dụng, rồi mới là buồng của các cô gái cả,
thứ. Phía trước buồng chủ nhà có bếp nấu ăn chung, nơi để nước. Những cặp vợ
chồng ăn riêng cũng có bếp ở phía trước buồng mình. Khi ngủ, người Ê đê chỉ
quay đầu về hướng Đông.Nhà của Người Ê đê không có bàn thờ, họ không thờ tổ
tiên mà họ chỉ thờ người mới chết nghĩa là người thân sau khi chết thì họ vẫn
ra mộ và để đồ ăn, thức uống, đồ dùng sinh hoạt của người mới chết,sau một
khoảng thời gian tùy vào điều kiện gia đình thường từ 1-3 năm thì họ thực hiện
lễ bỏ mả tức là bỏ mặc ngôi mộ, và không còn quan tâm chăm sóc hay nhớ tới
nữa.Mà Người Ê đê chỉ có cột thiêng ở cuối nhà gần bếp chính gia đinh để thờ
thần linh.
Phía sau nhà dài là kho lúa (hgiê) thường dựng cao hơn nhà ở, mặt
sàn hình vuông, có thể chứa 2-3 tấn thóc trở lên. Các nhà mồ (pưk msat), nhà cúng cơm (sang êsei) dựng ở nghĩa địa, cũng được
làm công phu với nhiều hình khắc đẹp. Nhà cúng cơm đặt trên cột gỗ có chạm trổ.
Xung quanh nhà mồ có các cột (gâng klao,
gâng kút, gâng môông, gâng mrai…), trên có hình người đội nón duôn bai,
hình bầu đựng nước, cối giã gạo, voi, rùa, kỳ đà.
Trong một buôn của người Ê đê
có 2 khu vực chính : làng chính cống( khu vực người sống) và nghĩa địa (khu vực
người chết nằm ở phía Tây của khu vực làng chính cống). Nhà mồ và tượng nhà mồ
là một phần vô cùng đặc sắc trong văn hóa cổ truyền của đồng bào dân tộc Tây
Nguyên.Nó vừa là văn hóa vật thể - phi vật thể, vừa có giá trị nghệ thuật ,
điêu khắc, kiến trúc, vừa có ý nghĩa về dân tộc học, tôn giáo học và văn hóa
dân gian. Nhà mồ Ê đê có 2 lớp mái, lợp cỏ tranh, dựng bằng gỗ ván bung kín 4
bên cao khoảng 80cm mái cao 40cm, thân mộ dài 2m, có hàng rào bao quanh 4 phía
tạo thành khuôn viên hình chữ nhật.Nấm mồ được đắp xong người ta úp nhà mồ lên
trên.4 góc nhà mồ trồng 4 cột kút (gong kut) là những thân cây gỗ đường kinh
khoảng 15-20cm, trên thân có chạm trổ các hình hoa văn hình học và các khối
hình :nồi đồng chồng lên nhau, hình mặt trăng… tất cả đều tô màu (đen: muội
than, trắng:vôi, đỏ: máu vật hiến sinh). Ngọn cột treo các dải vải, có khi là
các tượng tròn, chim grư, con khỉ, tượng người. Nếu không làm nhà mồ, họ dựng
trên giữa mộ 4 cây cột có tạc hình hoa chuối, đều chụm chân và choãi đầu để đỡ
và ôm gọn một “ nhà cơm” nhỏ (ngôi nhà minh khí) có dáng một nóc nhà 2 mái trên
một con thuyền. Cũng có nơi “nhà cơm” được đặt ngay trên đỉnh klao, dựng đựng
sau mộ, trong có cơm, bầu nước, gạo rượu cho người chết. Nhà mồ Ê đê dùng chủ
yếu 3 màu đen, đỏ, trắng.Tượng mồ Ê đê thì thưa và không được đặc sắc nhà mồ
Bana và Gia rai. Hai đầu nóc vươn lên tượng chim cu, hoặc đại bàng. Hai cửa ra
vào có dựng đối diện 1 đôi “cột phơi sợi”(gâng mrai) với xà ngang bắc nối với
nhau trên cao, mặt xà hướng ra ngoài thường tạc nổi hình kỳ đà hoặc rùa. Theo
hướng thẳng đòn nóc nhà mồ, phía trước mộ là cột “hoa chuối”(gâng moông) với
hình chiếc hoa chuối chưa nở nhô trên đầu cột với những trang trí gắn vào thân
cột, và ở đoạn gần chân cột.có khi được tao hình cái nồi đồng. Còn phía sau mộ
dựng cột klao,có thể cao 4-5 m, đoạn chân cột thường có hình cối giã gạo, trên
đầu cột tạc hình quả bầu, hoặc hình con voi, hay con khỉ,hình người phụ nữ
trong tư thế nào đó. Bốn góc hàng rào dựng 4 cột thấp, đầu cột đều tạc hình
chiếc nồi đồng, phía dưới hình cối giã gạo. Tượng nào cũng liên quan đến chế độ
mẫu hệ. Nhà mồ, tượng mồ như một bảo tàng về văn hóa mỗi tộc người về: kiến
trúc, điêu khắc, trang trí, cả vũ trụ quan chứa trong đó.Phân biệt với các
khoảng đất bên ngoài bằng hào rãnh,lại cắm những mui chông nhọn (tre, gỗ đẽo)
chĩa ra các hướng.Cặp sừng trâu treo trên nóc nhà mồ, cặp ngà voi chĩa từ 2 bên
nóc ra, những đoạn tre đẽo vát nhọn ở các đầu nhà mồ dài 50 – 100cm để chống
“xâm nhập từ bên ngoài” tức là chống trộm cắp mộ và chống ma rừng hay các con
vật hoang đến phá.
Cách tổ chức làm nên những công trình kiến
trúc của người Ê đê mang tính cộng đồng rõ rệt. Trên cơ sở đó, đồng bào làm
được những sản phẩm lớn, mất nhiều công sức. Nhà dài, những cỗ ghế độc mộc, các
hình khắc là những biểu hiện độc đáo của tính sáng tạo quần chúng Ê đê trong
văn hóa vật chất. Những hình trang trí khắc trên gỗ, ở nhà dài, trên một vài
công cụ, nhất là ở khu nghĩa địa mang những nét đặc thù rõ rệt. Mô típ quen
thuộc của nghệ thuật khắc gỗ trong nhà dài là đôi bầu vú sữa, vành trăng non,
con rùa, nồi bung, ngà voi, con kỳ đà. Đôi bầu sữa và một số hình khác thường
khắc nối, còn vành trăng non thường khắc chìm. Ở nghĩa địa, những hình khắc gỗ
chú yếu là trang trí trên đầu nóc nhà mồ và trên thân các cây cột với những
tượng gỗ: chim diều hâu, trái bầu, tượng người đội nón, voi khỉ, cối giã gạo.
Trên thân cột còn có hình bắp chuối, những cái kning hình thuyền. Đối
với ngôi mộ không có nhà mồ thì trên đinh cây cột ở giữa mộ được gắn mộ hình một nóc nhà trên
thuyền gọi là nhà cơm (sang êsoi). Những hình khắc gỗ nói
trên được trang trí khá công phu và sinh động. Các đường nét tuy còn thô sơ,
nhưng ổn định, mô tả hiện thực một các tự nhiên, để lại cho người xem những ấn
tượng sâu sắc.
Các gia đình lớn mẫu hệ Ê đê
sống trong các nhà sàn - dài. Tùy theo số lượng người trong mỗi gia đình mà nhà
dài, ngắn khác nhau. Những ngôi nhà dài của người Ê đê ngày nay chúng ta còn
thấy chỉ dài khoảng 20 – 30m. những nhà dài hàng trăm mét hầu như không còn.Nguyên
nhân nhà dài cùng chế độ đại gia đình mẫu hệ tồn tại là do : xung quanh có
nhiều thú dữ, sự tập trung đại gia đình trong ngôi nhà giúp mọi người bảo về
lẫn nhau; đồng thời giúp họ có thể đương đầu với những cuộc chiến tranh các bộ
lạc; sống trong nhà dài giúp họ có sự phân công lao đông hợp lý, lương thực và
thực phẩm được phân phối bình đẳng; bảo đảm sự kết cấu tâm lý cộng đồng chặt
chẽ, đặc trưng văn hóa tộc người phát triển.
2. Trang Phục:
2.1 Trang phục nam giới:
Xưa đàn ông Ê đê để tóc dài rồi
búi tó sau gáy, nay đã cắt tóc ngắn. Những người từ trung niên trở lên ưa chít
khăn vải chàm hay khăn vàng nhạt, khăn thầy cúng màu đỏ. Tay
phải thường đeo vòng đồng, vừa làm đẹp vừa mang ý nghĩa nghi lễ, bằng chứng của
cuộc kết nghĩa hay giao ước với thần linh. Nam giới ra khỏi nhà thường đeo
gùi, ngậm tẩu, đó cũng là một cách trang sức thêm cho bộ trang phục cổ truyền.
Đàn ông Ê đê đóng khố và mặc áo
cánh, choàng tấm mền, mang một số đồ trang sức. Áo của nam giới là loại áo
cánh, may mặc kiểu chui đầu, tay dài hay tay ngắn, gấu áo phủ quá mông, thân
sau áo dài hơn thân trước áo, xẻ tà, cổ áo tròn, mở rộng hơn về phía ngực áo
trước, giữa ngực mở ra một đoạn, có hàng khuyết và khuy cài bằng chỉ đỏ. Trên
áo cánh này, những đường chỉ màu trang trí thường thấy ở rìa hai nách áo, gấu
áo, vai và cổ tay áo. Áo cánh đẹp nhất là áo kteh hay còn gọi là đếch kvưh
grư, trước ngực áo có mảng hoa văn được gọi là “đại bàng dang cánh”. Gấu áo
phía sau viền đường chỉ màu, gài thêm những hạt cườm trắng và tua chỉ màu dài
tới 12cm. Mảng trang trí trước ngực được
mệnh danh là cánh đại bàng. Dọc đường xẻ cổ ngực, có dính thêm nhiều khuy đồng,
là những đoạn sợi chỉ đỏ đan sít vào nhau thành mảng hình thang cân lộn ngược.
Loại áo cánh mặc thường ngày,
tuy cách may cắt giống hệt như áo Kteh kể trên, nhưng không có trang trí cánh
đại bàng, viền chỉ màu, hạt cườm và tua chỉ. Loại áo đấy gọi là ao bal. loại áo không có tay mặc thường
ngày gọi là ao kok, áo làm bằng vỏ
cây gọi là ao kroh, mà ngày nay hạn
hữu còn thấy ở vùng xa xôi.
Về mùa đông lạnh đàn ông Ê đê
thường khoác tầm mềm Abăn dệt bằng
sợi bông, nhuộm chàm, trên đó trang trí những đường hoa văn. Theo lời kể của
các cụ già, xưa kia chiến binh Ê đê đi ra trận gấp tấm choàng rồi quấn chéo
hình chữ thập trước ngực, một tay cầm lao hay cầm chà gạc, tay kia cầm khiên.
Khố (Kpin) được
dệt sẵn trên khung dệt. Chất liệu vải,
trang trí hoa văn và độ dài ngắn có khác nhau. Màu nền của khố là màu chàm sẫm,
trang trí hoa văn dọc rìa khố, hai đầu vạt khố. Loại khố sang và đẹp nhất của
đàn ông Ê đê là khố kteh và đrai, dệt bằng sợi vải đẹp, dài, hai đầu
khố có trang trí hoa văn và đính thêm tua khố dài tới 25cm. Đây là loại khố
dùng trong ngày hội của những người có vị
trí cao trong buôn làng. Khi mặc, hai đầu khố rủ dài phía trước và sau
đùi. Loại khố pirêk trang trí hoa văn
trên hai vạt khố, nhưng không có tua màu. Hai loại khố dùng thường ngày tring
nhà hay đi nương là khố bơng và mlang, dùng loại này ngắn, ít hoa văn
trang trí, không có tua màu. Ngày nay chỉ còn những người già sinh sống ở vùng
xa đường giao thông, đô thị thì mới đóng khố, còn lại đã chuyển sang mặc quần như người Kinh.
2.2 Trang phục phụ nữ:
Phụ nữ Ê đê chải tóc rồi búi
thành độn ở sau gáy, dùng trâm bằng đồng hay bằng ngà voi để cài cho chắc và
cho đẹp. Khăn màu chàm đậm quấn ra ngoài tóc theo hai cách: quấn hình chữ
“nhân” trước trán rồi buộc thành mối ra sau gáy và bịt khăn kín cả trán và đầu,
mối vòng ra sau gáy phủ lên độn tóc. Phụ nữ Ê đê còn trang sức bằng những loại
vòng tay, vòng chân, nhẫn, dây chuyền bằng đồng hay bằng hạt cườm. Cách đây
chưa lâu phụ nữ còn đội thứ nón đan, có quai giữ ở cằm, gọi là duôn bai.
Phụ nữ Ê đê mặc loại áo cánh
ngắn, may kiểu chui đầu. Loại sang và đẹp gọi là ao đếch theo tên của dải hoa văn nơi gấu áo. Không giống như áo
chui đầu của nam giới, áo chui đầu của phụ nữ khoét cổ cao hơn, mở rộng cổ để
chui đầu ở phía vai, có đơm thêm vài hàng khuy để cài. Tay
áo thường ngắn và hẹp, gấu áo chỉ chấm thắt lưng nên khi mặc làm nổi những
đường nét khỏe khoắn của cơ thể phụ nữ. Trang trí trên áo thường ở đường bờ
vai, nách bả vai, cửa tay. Ao băl là
loại áo mặc thường ngày khi đi lao động, tay ngắn, không có trang trí hoa văn.
Những người già lão còn ưa mặc một loại áo lót trong gọi là ao yên, chỉ có phần vải che ngực. Tuy
không phổ biến nhưng phụ nữ cũng có thói quen khoác thêm tấm mền choàng khi
tiết trời lạnh.
Thường ngày đến buôn làng Ê đê
ta thường thấy phụ nữ quấn váy, ở trần. Váy của họ cũng như váy của hầu hết các
dân tộc ở Tây Nguyên, là loại váy mảnh, may bằng vải bông màu chàm hay đen, tùy
theo loại váy mà trang trí nhiều hay ít đường nét hoa văn. Khi mặc, người ta
đặt mép váy ở sườn bên trái, quấn một vòng quanh người từ eo bụng trở xuống,
dắt mép váy ngoài về phía sườn bên phải. Để cho chặt có thể dùng thêm thắt lưng
bằng vải hay bằng kim loại. Đó cũng là vật trang trí cho bộ nữ phục.
Căn cứ vào chất lượng vải may
và nhất là hoa văn trang trí trên váy mà người ta phân chúng ra làm nhiều loại
với tên gọi khác nhau.
+ Váy đếch và đrai, may bằng
vải tốt, có nhiều dải hoa văn trang trí trên thân váy ở phần gần cạp, gấu và
giữa thân váy. Loại váy này mặc trong những dịp hội hè long trọng, trong cưới
xin, nhất là của những gia đình khá giả.
+ Váy kdruêch piêck cũng là loại váy sang, nhưng không đẹp bằng hai loại
váy kể trên. Còn váy bơng thì may
bằng vải thô, không trang trí gì, thường mặc khi đi làm. Những bà già nghèo khó
vẫn mặc loại váy này. Hiện nay, ở vùng
ven trục lộ hay gần thị trấn, thị xã, các cô gái ưa mặc loại váy ống uyêng mút, đã khâu kín hai mép bên của
váy lại, khi mặc gấp phần thừa thành đường nếp phía trước. Loại váy này thường
may bằng vải công nghiệp, chất lượng tốt và đẹp hơn, cũng có khi trang trí thêm
những đường thêu thùa cho đẹp.
3. Ẩm Thực:
3.1 Ăn:
Cơm tẻ là nguồn lương thực chủ
yếu, cơm nếp dùng trong lễ tết và những khi có khách. Gần đây, ngô, khoai, sắn
cũng là nguồn lương thực quan trọng. Mỗi ngày đồng bào ăn hai bữa và ba bữa và
những ngày làm lụng vất vả. Trước đây đồng bào ăn bốc, nhưng hiện nay phổ biến
đũa, thìa, bát. Ngoài cơm nấu, xôi đồ, đồng bào còn làm nhiều loại bánh trong
các dịp tết lễ. Thức ăn thì có rau quả, cá và thịt gia súc hay thịt thú rừng.
Con vật sau khi cắt tiết thường thui rồi mới vặt long kể cả gà, vịt. Thịt gà
thưòng luộc hay chặt nhỏ nấu canh. Các loại thịt khác làm nhiều món hơn: thịt
nướng (ăm), thịt nướng bằng cặp tre
có gia vị (ghang), thịt luộc (tuk), thịt nấu với rau quả (tuk djam), thịt kho hay ninh nhừ, thịt
hàm trong ống tre có ướp gia vị (chim
brông). Ngoài tiết canh lợn là thịt chín băm nhỏ hay thịt tươi băm nhỏ
nhúng nước sôi trộn với huyết tươi (priêng
láp), còn mtah là huyết tươi
trâu, bò, dê trộn với thịt sống băm nhỏ ăn liền. Cá thường nướng (ăm và ghang), luộc (tuk djam),
gói lá nướng (kơum). Đồng bào cũng
thường làm mắm (lih), tôm, cua, cá
với gia vị để trong các vò sành ăn dần. Đặc biệt, người Ê đê còn có món “thịt lam” ( chim
brông) - làm bằng thịt trâu hoặc thịt bò. Sau khi đã ướp gia vị, thịt được bỏ
vào một ống tre tươi non với một ít nước
lã rồi nút kín bằng nút lá chuối xanh, cho vào bếp nướng. Khi ống tre đã cháy
đều, tạo nên một lớp than bao bọc là thịt đã chín. Họ thích ăn “thịt lam” nguội
hơn là nóng.
3.2 Uống:
Mỗi người trong gia đình đều có
bầu nước uống riêng, không dùng lẫn của nhau, xưa kia là nước suối, nay chủ yếu
là nước lã đun sôi để nguội. Việc giữ
gìn nguồn nước uống trong sạch là truyền thống tốt đẹp của đồng bào. Trong
những ngày tết, rượu cần là thức uống không thể thiếu của dân tộc Ê đê. Rượu cần là loại rượu ủ men, không qua chưng
cất, ủ trong vỏ sành và hút bằng cần trúc. Rượu cần được làm bằng củ sắn hoặc
gạo tẻ, khi có lễ đặc biệt quan trọng thì dùng gạo nếp. Men rượu được lấy từ vỏ
cây Hiam lấy trong rừng rồi trộn với bột ớt, bột gừng, bột gạo trộn với nước và
vắt thành từng bánh nhỏ, phơi thật khô, sau đó để từ 10 – 15 ngày. Nhiều gia
đình thường xuyên có những ché rượu cần để hang ngày cho mọi người uống. trong
các dịp tết, những ngày có cúng quải, có công việc hoặc có khách thì rượu cần
là thức uống đầy hấp dẫn đối với nam, nữ, trẻ, già.
3.3 Hút:
Ăn trầu và hút thuốc lá bằng
điếu khan khá là phổ biến.Việc
dùng nước trà và cà phê cũng không còn là hiện tượng mới lạ trong sinh hoạt của
ng ười Ê đê.
4. Phương tiện vận chuyển:
Chủ yếu là gùi đan cõng trên
lưng bằng đôi quai quàng qua vai. Ở vùng Krông Băk phổ biến có loại gùi cao
cẳng. Vận chuyển trên bộ thì có voi nhưng không phổ biến lắm.
IV. VĂN HOÁ TINH THẦN:
1. Ngôn ngữ:
1.1Tiếng
nói:
Tiếng nói của người Ê Đê
thuộc hệ ngôn ngữ Malayô - Pôlinêsia. Tiếng Êđê là một ngôn ngữ có quan hệ
gần gũi với Tiếng Gia rai, Chăm ,
Malaysia , Inđônêsia,
Philipin. Tiếng Êđê ngày nay phát triển một âm tiết đơn lập. Đây là kết quả của
sự ảnh hưởng của tiếng Môn-Khmer, Khmer,Lào, Việtt,Pháp.
1.2 Chữ viết:
So với các dân tộc ít người khác tại
Việt Nam ,
người Ê Đê là sắc dân có chữ viết theo bảng chữ cái La tinh khá sớm, người
Ê Đê có chữ viết từ thập niên 1920.
2. Tín ngưỡng, tôn giáo
2.1 Tín ngưỡng:
Theo quan niệm cổ truyền của người
Ê đê thì đất và nước đều do các thần Aê điê, Aê Đu sáng tạo song đất và
nước cũng đều có thần riêng, nhưng lại có quan hệ chặt chẽ với nhau, cùng chi
phối ngoại cảnh. Còn trong xã hội thì có Pô lăn trông nom đất đai, pô
pin ea là chủ nguồn nước, đều có nhiệm vụ quan trọng là bảo vệ đất đai,
nguồn nước không bị huỷ hoại và uế tạp. Con người khi khai thác đất đai đều
phải tuân theo tập tục, thực hiện những kiêng kỵ và các nghi lễ cần thiết đối
với các thần để mùa màng tươi tốt, dòng họ và thôn xóm phát triển. Ở một số
vùng khi có mưa đầu mùa , đồng bào liền đưa công cụ ra đầu nhà cầu may. Hôm đầu
tiên đi làm rẫy họ kiêng gặp hươu, nai, giác, con bú (cù lăn)... Xưa kia, cứ vào
đầu năm hoặc vài năm 1 lần, lễ cũng thần đất (yang lăng) do Pô
lăn chủ trì, được tổ chức một cách trọng thể. Sau đó, trong tháng 2,
tháng 3 hàng năm dân làng làm lễ cúng thần nước, tu ke hay tring
ea tại bến nước, trong nhà hay sau nhà khoa pine ea, vật cúng là
trâu hay lợn, cầu mong cho mọi người được yên lành, mùa màng tốt tươi, đàn gia
súc mau lớn, đẻ nhiều con. Khi bắt đầu phát rẫy trong các tháng 2 và 3 người Ê
đê còn cúng các thần gió, Kăm Angin, cầu mong cho mùa màng
tránh được những con bão lớn, lúa và hoa mầu phát triển thuận hoà. Đầu tháng tư
khi chuẩn bị gieo trồng, đồng bào làm lễ kăm hwar ở cạnh nguồn nước, rẫy
nương ít cỏ. Lúc bắt đầu trỉa lúa, các buôn làm lê kăm buh, cầu mong cho lúa
mọc đều được thần Aê Điê (thần thiện ) phù hộ không bị Yang Liê (thần ác) và thú
rừng , sâu bọ, chim chuột tàn phá đem lại thóc đầy kho. Sau lễ kăm puh chung
của làng, mỗi gia đình còn làm lễ cúng
lúa giống, trốc mđiê để hôm sau bắt đầu trỉa hạt. Tháng 7, các gia đình Ê
đê làm lễ tưới gốc lúa, tuk phum điê, mong cho lúa mọc khoẻ,
trổ bông to hạt mẩy. Tháng chạp, khi đã gặt xong đồng bào làm lễ ăn cơm mới, hma
ngắt, rồi mới lần lượt làm lễ ăn mừng vụ mùa, tết Mnăm thun. Mnămthun là
tết lớn của đồng bào Ê đê, được tổ chức ăn uống linh đình và đông vui, mừng vụ
mùa thắng lợi. Những người thu hoạch được nhiều lúa, thường mổ trâu, bò, mời
dân làng tới dự.Nhưng sau đó, có thể là vào tháng 2, các gia đình còn làm lễ
cúng trốc
hma để khi lấy lúa ăn không bị giặm, ngứa. Ngoài ra, khi có nắng hạn,
bị sâu phá lúa hoặc lúa chết nhiều đồng bào làm lễ cầu mùa và trừ tà. Ở các
nghề thủ công như làm thuyền độc mộc, làm lèn, làm gốm, đan chài lưới, việc
cúng bái cũng được chú trọng. Nhìn chung, hầu hết các lễ cúng ở đây đều mang
tính cộng đồng buôn, cầu mong mùa màng tươi tốt, gia súc nhiều con, mau lớn,
người người đều khoẻ mạnh và có một cuộc sống yên vui. Cách cúng bái của đồng
bào thể hiện những nhận thức còn hạn chế về tự nhiên và xã hội, hình thành
trong qúa khứ, mang tính chất quá trình văn hoá tộc người.
Một số các nghi lễ trong việc khai thác đất đai:
Lễ cúng thần đất (yang lăng): tổ chức vào đầu
năm hoặc vài năm 1 lần, do Pô lăn chủ trì.
Lễ cúng thần nước (tu ke hay tring ea): tổ
chức vào tháng 2, tháng 3; vật cúng là trâu hay lợn.
Lễ cúng thần gió (kăm angin): khi bắt đầu phát
rẫy trong tháng 2,3 người Êđê làm lễ cúng thần gió.
Lễ Kăm hwar: lễ được làm ở cạnh nguồn nước,
khi chuẩn bị gieo trồng vào tháng 4.
Lễ Kăm buh: khi bắt đầu trỉa lúa, cầu thần Aê
Điê (thần thiện) phù hộ lúa không bị Yang Liê (thần ác) phá hoại, đây là lễ
chung của làng.
Lễ cúng giống lúa (trốc mđiê)
Lễ tưới gốc lúa( tuk phum điê): làm lễ vào
tháng 7.
Lễ ăn cơm mới (hma ngắt): vào tháng 12, khi đã
gặt xong.
Lễ tết Mnăm thun: tháng 12, là tết lớn nhất
của đồng bào Ê đê, được tổ chức ăn uống linh đình và đông vui mừng vụ mùa thắng
lợi
2.2 Tôn giáo
Phần lớn người Êđê theo đạo Tin
lành và đạo Thiên chúa. Một số ít theo Phật giáo tại các vùng đô thị. Họ thường
đọc kinh cầu nguyện tại các nhà riêng của mục sư, hiện tại các nhà thờ Tin lành
vẫn chưa nhiều. Những người theo công giáo Rôma thì thường đến các nhà thờ tại
địa phương vào ngày chủ nhật. Số còn lại vẫn theo nét tín ngưỡng của cổ truyền, thờ
cúng các thần hộ thân cho mình.
3. Văn học
* Văn học dân gian
Trong văn hoá đời sống của
người Ê đê, văn học dân gian là loại hình nổi bật nhất, phản ánh tâm tư, tình
cảm, nguyện vọng của quần chúng. Mặc dù chữ Ê đê đã xuất hiện từ lâu năm 1923,
song trong việc truyền thụ vốn văn hoá dân tộc cho đến trước ngày giải phóng,
chủ yếu vẫn theo lối truyền khẩu. Các thể loại truyện kể của người Ê đê gồm,
truyền thuyết, truyện cổ tích, anh hùng ca, truyện cười rất phong phú và có giá
trị nghệ thuật cao.
Nổi tiếng trong văn học truyền
miệng Ê đê vẫn là những Khan. Khan là thể loại văn vần câu dài
ngắn không nhất định nhiều chương khúc diễn đạt sự tích anh hùng quân sự và văn
hoá. Phần lớn Khan nói về giao tranh giữa các tù trưởng và cuộc sống con nguời
trong thời đại đó. Khan còn mô tả những cuộc tình duyên theo phong tục, làng
mac, nhà cửa, y phục, lễ nghi và sinh hoạt nhân dân, làm nổi lên phẩm chất
người anh hùng mà nhân dân coi là có tính chất tuyệt đối. Khan làm nổi lên cuộc
đấu tranh với tự nhiên, chống lại thần quyền và cường quyền trong xã hội thể
hiện khát vọng tự, do vươn tới cái đẹp toàn diện của con người. Đọc khan, người
ta thấy nhiều hình tượng, nhiều mầu sắc, nhiều âm điệu, cảm xúc, lôi cuốn.
Hiện nay, một số khan đã được sưu tầm.
Song còn nhiều khan chỉ tồn tại trong trí nhớ của các ông lão, bà lão, dễ bị mai
một.
Trong văn học truyền miệng, người
Ê đê còn có một thể loại nữa gọi là Klei duê. Klei là ý, bài, chương; duê
là văn vần. Truyện cổ Ê đê cũng có nhiều đoạn tả bằng văn vần gọi là klei
yăl dkiê đưm. Tục ngữ và cao dao là những câu duê, phổ biến kinh nghiệm
sản xuất, quan hệ giữa con người với nhau, những điều phải theo (tục ngữ ) hoặc
những câu có tính trữ tình sâu sắc (ca dao) rất phong phú và được ưa thích. Sự
khác nhau giữa ca dao và tục ngữ không chỉ ở mỗi nội dung mà ở cả hình thức :
tục ngữ câu ngắn, ca dao câu dài hơn. Nói đến những câu có vần về những quan hệ
xã hội tương đối toàn diện trong vốn văn hoá tinh thần của người Ê đê phải nói
đến công trình Luật tục ca hay Tập quán pháp ca. Klei
duê bhiănkdi do L. Sabatier sưu tầm. Nó bao gồm một
hệ thống những câu bằng văn vần nói về các quy ước về xã hội truyền thống mà
cách đây không lâu, còn được sử trong
toà án phong tục, xét xử những vụ vi phạm trật tự công cộng, loạn luân, trộm
cắp, vi phạm tập quán ... Nội dung của nó đề cập đến các mặt quyền chiếm hữu
đất đai, tài sản gia đình, quan hệ dòng họ, quy chế hôn nhân, tố tụng... Trong
đó, nét nổi bật là bảo vệ phong tục tập quán tính cộng đồng của buôn.
* Thần thoại
Thần thoại Ê đê quan niệm rằng,
thế giới có hai tầng : đất và trời. Trên trời có nhiều vị thần linh thiện và
ác, trong đó Aê Điê, Aê Đu là những vị thần thiện được mừơng tượng như là
những con người khổng lồ có hơi thở quật ngã được những người xung quanh, có
chân to gấp nhiều lần chân người, là những vị thần toàn thiện toàn mỹ, chỗ dựa
của cuộc sống con người. Dưới Aê Điê ,Aê Đu là các vị thần nông nghiệp thần mưa
gió thần sấm sét, thần rừng, thần núi, thần nước, thần đất. Giúp việc Aê Điê,
về việc nông nghiệp là Mtao kla trông coi việc đồng áng và Hbia
Klu, vợ của Mtao klu trông coi cây lương thực. Thần Sri
mili lik và vợ là Hliba giúp các thần lớn làm kê, lúa
nẩy mầm, trong đó chồng giúp cho lúa, vợ giúp cho kê. Thần Aê mghăm là thần bảo
vệ lúa. Các vị thần nông nghiệp là thần thiện, còn các vị thần thời tiết thì
phần lớn là ác, do Yang Liê đứng đầu, chuyên gây ra mưa bão, cho nên trong một số
nghi lễ nông nghiệp đồng bào làm tượng gỗ thần này có lưỡi gươm bỏ lên đầu.
Thần gió (Yang Briêng), gây tai vạ
cho người nhất là trẻ sơ sinh. Thần sấm (Yang Găm), và trợ giúp thần này là Yang
mjô. Thần mưa là Aê yul, đều gây ra những tai hoạ cho
mùa màng và đời sống con người. Ngoài ra có thần mặt trăng (Yang
Mlan) thần mặt trời (Yang Hrcê).
Ở tầng đất cũng có thần thiện
và thần ác.Thần thiện (Yang tlua) và em (Kbua
lăn)
cai quản mặt đất tạo nên dòng nước và
thảo mộc, giúp cho cây lúa lớn nhanh, không bị sâu bọ phá hoại. Thần Aê
Mghi và em Aê mghăn là những vị thần đem đến cho người Ê đê nhiều của cải
thời nguyên sơ, nuôi dưỡng người ê đê theo quan niệm cổ truyền. Hai vợ chồng hộ
mệnh Yang
Am Ba, Yang Amí Ba ở tầng trời nhưng thướng trú ngụ ở cây đa. Thần Yang Bung Sôk là thần số mệnh. Thần Yang
Mnút Hra thần cây đa, cây sung, chuyên trông nom nguồn nước, săn sóc
dân làng mang đến cho trẻ sơ sinh những điều tốt lành.
Truyện cổ tích Ê đê thường là
truyện bệnh vực người lao động người yếu kém như trẻ mồ côi, chàng rể ca ngợi
sự khiêm tốn, thực thà, thông minh, công bằng, tín nghĩa, sức mạnh của tập thể
và tình yêu. Trong các truyện ngụ ngôn thì những biểu hiện đó ở các con vật
nhỏ, và hiền như, thỏ, rùa, sên. Truyện
cười Ê đê đã kích những thói hư tật xấu của người và thường tạo ra những cái
cười bất ngờ. Những truyện về sự tích núi sông hồ, tục cưa răng xâu tai... cũng
phổ biến trong quần chúng.
·
Dân ca:
Dân ca Ê đê có hai làn điệu chủ
yếu là mmuinh và kưt kdjâ, cách gieo vần tương tựu
trong khan, ca dao, tục ngữ. Giống như ở các dân tộc anh em, dân ca ê đê dặt
câu đối xứng, đúng phương pháp tượng hình và so sánh để làm đẹp câu ca, có sức
hút . Hát dân gian Ê đê gồm những bài ca nghi lễ trong chu kỳ một năm và một
đời người. Những bài ca nói lên lòng yêu quê hương xứ sở, khát vọng tự do và sau này, có những
bài ca mang nội dung cách mạng chứa đựng tình yêu đất nước.
4.Lễ hội của người Ê đê:
4.1. Lễ cơm mới
Các
dân tộc ít người ở Tây Nguyên, nhìn chung theo đa thần giáo. Với tâm hồn thuần
phác còn in đậm dấu ấn của tư duy con người thời nguyên thuỷ, họ cho rằng các
vị thần linh, từ các vị thần lớn giữ chức năng cai quản đến các vị thần nhỏ hơn
cũng đều có tình cảm như con người, cũng vui buồn, giận ghét, yêu thương...
Cúng thần nhiều lễ vật, và nhất
là tấm lòng trung thành, thì sẽ nhận lại sự giúp đỡ, chở che, ủng hộ, bênh vực
tương ứng. Trong các thần (Yang) được tôn thờ, thì thần lúa được tôn trọng
không kém thần nước, thần núi, thần cây. Do đó, nương rẫy là nơi thiêng liêng,
hạt lúa sinh ra từ nương rẫy là sản phẩm được các thần ban phát để nuôi sống
con người.
Hằng năm, sau khi thu hoạch, người ta tổ
chức lễ ăn cơm mới, vừa để tạ ơn thần, vừa để vui mừng chung hưởng kết quả của
một quá trình lao động nhọc nhằn, vất vả.
Lễ cơm mới diễn ra như sau:
Khi lúa trên rẫy đã được gùi về
đổ đầy các kho để lúa (Sang mđiê), gia chủ bắt tay vào việc tổ chức lễ cúng cơm
mới. Lễ không tổ chức cho toàn buôn một lúc, mà lần lượt từng nhà. Phụ nữ lo
việc bếp núc, nấu nướng. Đàn ông thì lo rượu cần, chuẩn bị heo, gà để giết
thịt, vào rừng chặt cây, đẽo cột gơng (cột để buộc ché rượu cần trong lễ).
Khách mời, họ hàng từ các buôn xa gần được báo. Con trai lo chặt củi, con gái
lo giã gạo; tiếng chày trong buôn vọng lên từ sáng sớm đến lúc ông mặt trời đi
ngủ. Đám trẻ con háo hức chơi đùa, hoặc vây quanh các bà già đang soạn từ các
gùi thiêng lớn những áo, váy, khố đẹp, những tấm chăn đen, đỏ rực rỡ dùng cho
ngày lễ. Nếu gia chủ là trưởng tộc, thì họ hàng trong buôn phải mang thêm đồ
cúng đến đóng góp. Mọi việc đã chuẩn bị đầy đủ. Cột gương đã dựng, các ché rượu
đã buộc vào dây, chiêng Ana, chiêng Sar đã treo lên xà nhà. Nước từ suối đã đem
về đổ đầy các nồi năm, nồi mười. Heo đã mổ, gà đã thui, các lễ vật đã bày ra ở
sàn nhà.
Thầy cúng trong bộ lễ phục chỉnh tề bước ra, hút rượu cần vào một cái bát hoà với tiết heo, trân trọng mời nữ chủ nhân (cao tuổi nhất) ngồi trước mâm, chân đặt lên lưỡi rìu nhận lễ. Tiếng chiêng với nhịp điệu vừa trầm hùng, vừa náo nức nổi lên. Thầy cúng đọc lời khấn nguyện tỏ lòng biết ơn các thần:
"Ơ Yang phía đông, Ơ Yang phía tây, Ơ Yang mây, Yang đất, Yang mưa, Yang núi...Nay lúa dã suốt về, heo đực đã mổ, rượu đã đầy ché... Xin mời các Yang hãy cầm cần rượu, ăn miếng thịt heo, bát cơm mới đầu mùa. Mong Yang cho mùa sau lúa ngoài rẫy sai bông, mẩy hạt, đến kỳ thu hoạch đầy gùi, ngập kho... "
Khấn xong, thầy đi vẩy rượu
chúc phúc nơi bếp lửa, dàn chiêng, cầu thang, kho lúa. Tiếp theo phần nghi lễ,
bắt đầu cuộc tiệc vui. Ông bà, cha mẹ trong buôn, khách khứa xa gần, bạn bè ăn uống
no say, tự nhiên, thoải mái. Người nữ chủ nhà được mời vít cần rượu đầu tiên,
rồi lần lượt người già, người trẻ, trong họ trước, trong buôn sau... Mọi người
vừa ăn uống, vừa vui chơi, ca hát cho đến khi ai không thích nữa thì về. Người
ở lại được mời nối tay trên cần rượu, nghe chiêng, nghe hát Aday (một loại dân
ca trữ tình) giãi bày tâm sự. Khách đến dự lễ còn được gia chủ trao tay mỗi
người một gói nhỏ thức ăn khi ra về, như để cùng chia đều sự may mắn cho mọi
bếp.
Về khuya, một ông già từng trải
và giỏi giang, được mời kể Khan-khúc tráng ca truyền thống của người Êđê. Cả
người kể và người nghe như chìm đắm trong không khí cổ xưa của những bản anh
hùng ca trác tuyệt với hình ảnh những dũng sĩ như Đăm San, Đăm Di, mà những
chiến công của họ mãi mãi là niềm tự hào của bộ tộc.Giọng kể của nghệ nhân khi
trầm hùng như dòng sông chảy bên vách núi, lúc dồn dập, ồ ạt như băng qua thác
ghềnh hiểm trở khi thầm thì như gió thoảng, lúc nhẹ nhàng như tiếng lá rơi giữa
rừng khuya.
Cứ thế, lễ ăn cơm mới kéo dài từ
nhà này sang nhà khác, suốt tháng chạp sang tháng giêng. Lễ ăn cơm mới của
người Êđê mang đậm nét dấu ấn của tục "ăn năm, uống tháng", nhàn hạ
trong không khí mùa xuân núi rừng. Họ vui say thoả thích, ca hát thâu đêm, để
rồi sau đó lại hăng hái chuẩn bị cho mùa trồng tỉa mới với nhiều hy vọng mới.
4.2. Lễ cúng bến nước
Một trong những phong tục tập
quán lâu đời nhất của đồng bào dân tộc Ê đê là Lễ cúng bến nước. Lễ hội thường được tổ chức hàng năm sau mùa thu
hoạch để cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu cuộc sống ấm no hạnh phúc.
Buổi lễ cúng bến nước thường
diễn ra như một ngày hội của buôn làng Ê đê. Sau hồi chiêng ngân dài như đưa ta
vào thế giới tâm linh sâu thẳm và trang nghiêm, lễ cúng bến nước được bắt đầu
bằng việc lễ cúng ông bà tổ tiên để thông báo cho ông bà về sự có mặt đông đủ
của con cháu trong buôn làng.
Khi lễ cúng cho ông bà tổ tiên
kết thúc, một hồi chiêng nữa ngân lên và đó cũng là khi thầy cúng bát đầu làm
lễ cúng Giàng (Trời) cầu mưa. Kết thúc lễ cúng Giàng, những hồi chuông dài tiếp
tục ngân vang, những cô gái trong trang phục truyền thống, lưng đeo gùi, cùng
mọi người theo bước chân thầy cúng về bến nước đầu buôn.
Lễ cúng bến nước diễn ra trong
không khí linh thiêng, trang trọng. Thầy cúng đọc lời khấn cầu mong Thần nước mang
nước, nguồn sức sống quan trọng nhất đến cho buôn làng. Sau lễ cúng, những bầu
nước mát ngọt được những người con của buôn làng gùi về trong niềm vui hân
hoan. Mọi người lại quây quần bên nhau uống rượu cần trong âm hưởng rộn ràng
của cồng chiêng Tây Nguyên - một di sản văn hóa thế giới.
Lễ cúng bến nước được tổ chức
trong 3 ngày. Ngày thứ nhất, thanh niên trai tráng trong làng đi sửa đường vào
bến nước. Sau đó, các thầy cúng được mời về để tổ chức lễ cúng. Đi đầu tiên là
thầy cúng mặc áo của người Ê-đê Mdhur truyền thống, chít khăn đỏ. Thầy cúng đi
trước cầm một tô rượu có pha huyết heo. Già làng đi sau nắm khiên đao, tất cả
dân trong làng đi theo sau già làng ra bến nước.
Ngày thứ hai, tất cả các nhà trong buôn đều cúng. Thầy cúng sẽ đến cúng từng nhà. Hôm đó, đường vào buôn có cây chắn ngang đường; buộc dây treo các loại: như sợi, chỉ, lông gà để cấm người lạ vào buôn. Lễ vật của mỗi gia đình là một ché rượu và một con gà hoặc heo. Sau khi cúng cho các gia đình xong, thầy cúng đi tới bến nước và chọn một chỗ gần bến-đoạn phía trên bờ sông moi đất lên để đổ rượu và huyết heo vào. Thầy cúng chỉ một nam thanh niên khỏe mạnh múa khiên đuổi thần xấu đi.
Ngày thứ ba thì cả buôn cúng. Lễ vật là một ché rượu và một con gà. Cúng xong mọi người mở rào, phá bỏ các chỗ chắn đường. Trong 3 ngày này, chiêng trống được tấu lên liên hồi để gọi thần linh trở về, cả buôn đều thành tâm vào việc cúng, không ai đi rẫy, không bắt cá, không đuổi chim, đuổi nai...
Ngày thứ hai, tất cả các nhà trong buôn đều cúng. Thầy cúng sẽ đến cúng từng nhà. Hôm đó, đường vào buôn có cây chắn ngang đường; buộc dây treo các loại: như sợi, chỉ, lông gà để cấm người lạ vào buôn. Lễ vật của mỗi gia đình là một ché rượu và một con gà hoặc heo. Sau khi cúng cho các gia đình xong, thầy cúng đi tới bến nước và chọn một chỗ gần bến-đoạn phía trên bờ sông moi đất lên để đổ rượu và huyết heo vào. Thầy cúng chỉ một nam thanh niên khỏe mạnh múa khiên đuổi thần xấu đi.
Ngày thứ ba thì cả buôn cúng. Lễ vật là một ché rượu và một con gà. Cúng xong mọi người mở rào, phá bỏ các chỗ chắn đường. Trong 3 ngày này, chiêng trống được tấu lên liên hồi để gọi thần linh trở về, cả buôn đều thành tâm vào việc cúng, không ai đi rẫy, không bắt cá, không đuổi chim, đuổi nai...
4.3 Lễ Kpan:
Lễ hội Kơ Pan là lễ hội rước ghế Kơ pan
để mừng nhà chủ. Tượng
trưng cho sự giàu có của gia đình và là niềm tự hào của cả buôn.
Kơ Pan là một chiếc ghế độc mộc, bằng gỗ nguyên khối dài khoảng 15m, rộng
chừng 70cm, cao 45-50cm với độ dày 7-8cm. Gỗ để làm Kơ pan phải chọn loại cây
rừng lâu năm, cao, to, thẳng, gỗ tốt. Làm được Kơ Pan, đòi hỏi sức mạnh tập thể
rất lớn, trong thời gian gần một chục ngày. Người chủ không chỉ phải lo đủ
trâu, lợn, gà, rượu, gạo phục vụ cho bà con trong những ngày làm Kơ Pan, mà
theo tục lệ còn phải là người đã tổ chức được các lễ hiến sinh, cầu sức khỏe có
nhiều cuộc khoản đãi cộng đồng và có một số lượng chiêng ché lớn.
Việc tìm và chặt cây phải được bàn định trước với gia đình bên vợ (vì người
Ê Đê theo chế độ mẫu hệ), sau đó, đẽo một mảnh vỏ cây nhỏ mang về cúng thần,
xin được ngả cây. Sớm tinh sương một ngày đẹp trời mới đi chặt cây. Khi đi,
buôn phải không có đám tang và không có tiếng mang giác mới tốt. Chủ nhà dẫn
đầu đoàn người chặt cây gồm 7 người, mang theo rìu và dùi sắt, tiếp đó là thầy
cúng và người giúp việc quản lý (là anh em trai bên vợ), cuối cùng là dân làng
và người nhà đi theo mang lương thực phục vụ.
Chủ nhà bổ nhát rìu đầu tiên rồi đến mọi người. Cây chặt được nếu đổ ngang
dòng nước phải bỏ sao cho cây đổ dọc mới được. Khi cây được chặt sạch cành lá,
chủ nhà và thầy cúng đi lên thân cây 7 lần để đuổi tà ma. Sau đó, những người
thợ dùng rìu đẽo cây thành chiếc Kơ Pan có hình chiếc thuyền với những đường
nét khỏe khoắn. Sau khi thầy cúng cầm rìu bổ nhẹ vào Kơ Pan theo tục lệ, trai
tráng trong buôn cùng khênh Kơ Pan về buôn trong khi những thanh niên nam nữ
khác vừa đi vừa múa hát, gõ chiêng đi theo về. Đến đầu buôn, đám rước đặt Kơ
Pan xuống cho thầy cúng phủ vải đỏ lên rồi mới đưa về, đặt ở vườn sau nhà chủ.
Sáng hôm sau, chiếc Kơ
Pan tiếp tục được chạm khắc nối những đường nét hoa văn tinh tê mang tính biểu
tượng truyền thống. Buổi trưa, khi chiếc Kơ Pan chính thức hoàn thành, mọi
người trong buôn tập trung lại đưa ra cửa trước, đặt ghếch một đầu lên sàn nhà.
Làm xong chủ nhà cầm lấy khiên, kiếm đã được bày sẵn trên chiếu, đi lại trên Kơ
Pan 7 lần để xua thần xấu và đặt tên các Kơ Pan như một sự thông báo chính thức
rằng, mình là chủ của Kơ Pan. Thầy cúng cũng bước ra và làm lễ khấn báo thần
linh rằng, Kơ Pan đã có chủ.
Kơ Pan được các thanh niên trong buôn khênh vào gian khách, đặt dọc vách
phía Tây nhà. Lúc này, lễ cầu Giàng mới chính thức bắt đầu. Lễ cứng gồm 1 trâu
và 7 ché rượu được buộc vào 7 chiếc cột. Ché to nhất buộc ở cột ngoài cùng,
thân cột bôi huyết trâu thành 7 khúc. Thầy cúng ngồi ở đầu Kơ Pan, cầm chiếc
que dài nhúng vào bát đồng đựng tiết lợn pha rượu và bôi dọc theo Kơ Pan để yểm
giữ tài sản cho chủ nhà. Khi việc cúng Giàng kết thúc cũng là lúc bà con ăn
mừng chủ Kơ Pan.
Sáng sớm hôm sau, mọi người cùng dự lễ, rồi giết trâu để làm lễ vật. Vật
phẩm làm lễ gồm cơm nếp, cơm tẻ, thịt trâu, ngoài ra còn có mâm dụng cụ mừng
chủ nhà gồm quả bàu khô đựng nước, kiếm, khiên và dép bằng da trâu. Thầy cúng
làm lễ xong, cũng là lúc mọi người trong buôn mang gạo, rượu tới mừng. Theo
phong tục, trước khi về mỗi người còn được nhận một gói lá nhỏ đựng thịt. Lễ
xong, chủ nhà nghỉ 2 ngày không đi làm rẫy.
5. Nghệ thuật múa:
5.1 Múa chim Grứ:
Múa Chim Grứ (chim đại bàng) là một trong những điệu múa phổ biến
trong các lễ hội lớn hay trong nghi lễ cúng Yàng, cầu khấn các thần linh mà
người Êđê coi là thần hộ mệnh cho con người. Đặc biệt trong lễ bỏ mả ( lui msát), thông qua động tác
múa thể hiện lời chào từ biệt của người còn sống đối với người đã đi về cõi ông bà tổ tiên.
Người ÊĐê quan niệm rằng chim
Grứ là biểu hiện cho sức mạnh dồi dào, chỉ có chim Grứ mới có thể bay cao nhất
trong các loài chim. Nên động tác múa chim Grứ hoàn toàn mô phỏng theo cánh chim đang bay lượn. Ngoài
ra, Chim Grứ còn thể hiện quan niệm tâm linh của người Êđê rằng : những người
đã qua đời chỉ là chết về thể xác, còn linh hồn của họ vẫn quanh quẩn đâu đó.
Có lúc thì vô hình, có khi lại hiện hữu, thông qua hình dạng những con vật như
con đại bàng,con bướm hay con nhện mà sau bảy lần biến hình, sẽ lại được đầu
thai trở lại làm người.….Tuy nhiên, hình ảnh con chim đại bàng được người ÊĐê
tin là linh thiêng nhất, nên chim Grứ thể hiện mối quan hệ giao thoa giữa người
sống với linh hồn những người đã chết.
Chim Grứ được coi như là phương
tiện đưa linh hồn người chết về thế giới của tổ tiên; đồng thời cũng là hình
ảnh thể hiện linh hồn của ông bà tổ tiên đến thăm con cháu trong những ngày có
lễ hội và bảo vệ những người đang sống. Vì thế, khi múa người ta đưa tay lên,
làm thế nào để người xem tưởng tượng ra như cái đầu , hoặc đôi cánh của chim
đại bàng đang bay lượn trên bầu trời.Cũng như mời gọi các vị thần linh, các linh
hồn của người đã khuất, về tham gia lễ hội cùng với buôn làng, với gia đình.
Múa chim Grứ có hai hình thức
thể hiện cơ bản : Một là chỉ dùng tay
biểu diễn, sử dụng sự uyển chuyển của cổ tay, đưa đẩy, chuyển động cả cánh tay
tùy tình huống, ý nghĩa của việc lễ hội. Tùy theo lễ hội mà người biểu diễn múa
đưa tay lên bao nhiêu lần. Chẳng hạn, trong lễ cúng cột nêu ( mđi Gơng Drai), nếu cúng ba
cột nêu, thì những người múa làm động tác xoè tay sát dọc theo hai bên thân hình đưa lên đưa
xuống ba lần, giống như con đại bàng ba lần vỗ cánh trước khi bay.Nếu cũng 5
ché, phải đưa lên xuống 5 lần. Hai là tay giơ cao quá đầu,chân nhón lên bước
nhẹ nhàng lướt qua trước ghế Kpan( lễ cúng rước kpan) và sau ché rượu ( trong
lễ cúng chúc phúc).
Động tác múa là sự kết hợp giữa
đôi tay và đôi chân để luôn tạo ra sự mềm mại, uyển chuyển. Các nghệ nhân có
thể biểu diễn điệu múa sao cho phù hợp với tính chất của lễ hội.Những nghệ nhân
múa say sưa lúc thì tay đưa lên cao, lúc thì giang ngang,xòe ra uyển chuyển. Ba
ngón tay giữa gập xuống, hai ngón út và ngón cái vẫn giữ nguyên vị trí, cổ tay
chuyển động theo sự di chuyển của bàn chân và thân hình, tưởng tượng lúc như
đôi cánh của con chim Grứ(đại bàng) đang vỗ dập dìu lao vút lên trên bầu trời
xanh thăm thẳm của cao nguyên; lúc như chiếc đầu chim đang xoay sang trái, sang
phải đưa cặp mắt sáng quắc quét qua toàn bộ khung cảnh xung quanh.
Điệu múa chim Grứ còn được sử
dụng trong lễ cúng rước Kpan. Khi ghế kpan được đưa lên nhà sàn hòa trong âm thanh vang rộn của
trống, của chiêng ngân vang, các nghệ nhân múa chim Grứ bắt đầu biểu diễn với
tiết tấu nhanh, chậm theo nhịp chiêng, có lúc
như thác đổ giục dã, vui nhộn, có lúc uyển chuyển nhẹ nhàng bay bổng.
Người Êđê tin rằng đó là lúc các nghệ nhân thay lời gia chủ hoặc buôn làng,
chuyển lời khẩn cầu được phù hộ hoặc mời gọi đến các vị thần và linh hồn tổ
tiên. Đến khi tiếng trống tạm dừng,
tiếng chiêng dần dần giảm nhẹ âm lượng và ngừng hẳn thì các cô gái cũng đã múa
xong.
Điệu múa chim Grứ của người Êđê luôn hòa quyện
với âm thanh dồn dập rộn ràng của dàn ching knah, làm cho lễ hội thêm sôi nổi
và lễ cúng càng thêm trang trọng.
Người múa trước đây thường là những người đàn
bà lớn tuổi,trang trọng. Sau này đội hình múa dần dần được trẻ hóa, là những cô
gái xinh đẹp, thân hình thon thả, đầy
sức sống. Và, đặc biệt điệu múa Grứ chỉ được múa với đội hình số lẻ 3, 5, 7,
hoặc 9 người.
5.2 Múa Khiêl:
Điệu múa Khiêl của người Ê-đê,
một hình thức múa võ có lịch sử lâu đời và tồn tại đến ngày nay. Người múa mặc
trang phục khá đặc trưng, đầu quấn khăn đỏ, thả hai đuôi khăn về phía trước
trán, mặc áo hở ngực, đóng khố kơtel, tay trái cầm Khiêl, tay phải cầm gươm,
nhảy múa với động tác mạnh mẽ đầy uy lực, nhưng phải phối hợp với âm nhạc lúc
trầm, bổng, lên cao. Múa khiêl thường múa thành từng cặp, từng nhóm. Vì vậy,
người múa phải có sự phối hợp hài hoà và chính xác để tránh những va chạm tai
nạn. Điệu múa này thường được sử dụng trong các nghi lễ như đâm trâu, bỏ mả.
6. Nhạc cụ:
Hát dân gian thường gắn liền
với việc sử dụng nhạc cụ cổ truyền.
6.1 Đàn k’ni:
Thân đàn là một khúc nứa, tre
hoặc gỗ tròn nhỏ, không có bầu cộng hưởng. Trên thân có gắn phím bấm. Dây đàn
được mắc dọc theo thân đàn. Cung kéo chỉ là một đoạn tre nhỏ hoặc một thanh tre
khi diễn tấu người ta cọ phần cật vào dây. Âm lượng nhỏ và với đặc tính như
trên, k'ni chủ yếu là nhạc khí để bộc lộ tâm sự, tình cảm của các chàng trai
với các cô gái vào những lúc thanh vắng tĩnh mịch. Đôi khi người Ê-đê cũng dùng
k'ni để đệm cho hát khóc trong lễ tang
6.2 Ống sáo trúc:
người Ê đê gọi là Đing, bao gồm:
a. Đing Năm: (5 theo tiếng Ê đê là 6) gồm 6 ống nứa
dài ngắn khác nhau được xếp thành hai bè. Tất cả đều được cắm một đầu vào trái bầu
khô. Trên lưng mỗi ống được khoét một lỗ ở những vị trí khác nhau để tạo thành
nhạc. Tên và cao độ của mỗi ống dựa theo tên và cao độ của các chiêng Knah.
Hình thức diễn tấu: người biểu
diễn ngồi hoặc đứng hoặc vừa đi vừa thổi. Khi thổi để Đinh Năm ngang ngực, đầu
các ống hơi hướng lên trên, miệng ngậm vào đầu núm bầu, tay phải đỡ dưới hàng
ống trên, ngón cái đặt vào lỗ của ống thứ nhất ở bên cạnh, ngón trỏ và ngón
giữa đặt vào 2 lỗ của ống thứ 2 và 3, 2 ngón còn lại có chức năng nâng và giữ. Tay phải đỡ hàng
ống dưới, các ngón như tay trái.
b. Đing Tak Tar : Nhạc cụ này gồm một ống nứa có ba lỗ, được
cắm một đầu vào trái bầu khô.
Khi biểu diễn, người biểu diễn ngồi hoặc đứng,
đặt Đinh Tak Tar ngang ngực, phần ống nằm ngang người. Ngón trỏ và ngón giữa
tay phải kẹp vào phần ống nứa phía sau, ngón cái bịt đầu ống. Tay
trái nắm phần ống dài phía trước, ngón
cái bịt lỗ bên cạnh phải, ngón trỏ, ngón giữa đặt lên 2 lỗ nằm phía trên.
Ngoài ra còn có các loại đinh
như : Đing buốt chốc , Đing ring , Đing téc
c. Đinh Buôt Kliă: là cây sáo dọc, làm bằng ống
nứa, có 4 lỗ bấm và mỗi lỗ là 1 nốt.
Hình thức diễn tấu: người biểu
diễn ngồi hoặc đứng, cây sáo để dọc, phần đuôi hơi hướng ra ngoài, miệng ngậm
vào đầu thổi. tay phải ở trên, tay trái ở dưới, ngón cái đặt phía sau, ngón trỏ
và ngón áp út đặt lên các lỗ bấm. Ngón giữa có nhiệm vụ giữ ống.
6.3 Ki Pah:
Là chiếc tù bằng sừng trâu (ki là sừng, pá là
vỗ). Một đầu sừng rỗng, đầu nhọn cưa đi để thành 1 khe hẹp, ở giữa gần phần đầu
nhỏ có nhô lên 1 cuôp (lưỡi gà) hình chữ nhật gắn kín bằng sáp ong làm núm ngậm
vào để thổi. Khi thổi người ta dùng lòng bàn tay vỗ vào miệng tù và để tạo nên
âm thanh vang xa.
Hình thức diễn tấu: đặt nằm
ngang, tay trái nắm thân chiếc tù bằng 4
ngón tay, ngón cái bịt đầu ống nhỏ để thay đổi cao độ, âm thanh. Miệng
ngậm vào cuoop, dùng hơi thổi.
Nhạc cụ bằng dây, như:
Brố:
Gồm một nửa quả bầu khô có đường kính từ 14 - 20 cm, phần núm được gắn với một
cần đàn dài từ 1,2m - 1,4m (bằng gỗ). Có hai tay bằng tre để mắc dây và lên
dây. Trên cần đàn có năm phím bấm lam bằng bông gòn trộn với sáp ông đen, mỗi
phím cách nhau từ 5 - 6 cm
6.4 Cồng chiêng:
Phổ biến và được đồng bào yêu thích là bộ nhạc
khí bằng đồng, cồng (Knah) và chiêng
(ching). Bộ cồng cỡ nhỏ không núm gồm
6 chiếc, từ nhỏ đến lớn bỏ lọt vào nhau đánh bằng dùi gỗ. Mỗi cái đều có tên
riêng và chức năng riêng theo thứ tự từ lớn đến nhỏ là: 1) Knah, 2) Lhiang (còn gọi
là ana lhiang), 3) Mdu Khơk (còn gọi là Knak Khơk) 4) Hluê Khơk (còn gọi là mong)
5) Hluê lhiang, 6) Hluê khơk diêt (còn gọi là k’khiêk). Chiêng thì có núm, lớn hơn knah và gồm 3 chiếc to nhỏ khác nhau,
đứng đầu là ana, thứ đến là mdu, sau nữa là mong. Người cử nhạc dùng dùi gỗ có bọc vải đánh vào mặt núm. Bên
cạnh đó, còn có char là cái lớn nhất
không có núm, dùng để cầm nhịp. Dàn nhạc Ê đê còn có trống cái, hgơr đi kèm, đồng thời đóng vai trò mở đầu
và kết thúc một bản hoà tấu.
Hình thức diễn tấu: thường diễn tấu trong nhà dài, ngồi trên ghế
Kơ pan quay mặt về hướng Đông, cồng và chiêng để hơi chếch trên đùi. Tay phải cầm rùi, đánh vào mặt của chiêng và cồng, tay
trái xòe ra, áp vào mặt ngoài (mặt phẳng). Khi diễn tấu, tay trái mở ra hoặc áp
vào hoặc gõ các ngón tay trên mặt phẳng phía sau. Riêng Mđụ đặt nằm xuống ghế,
dưới kê vải hoặc 1 lớp bao bố để ngăn bớt độ vang.
Ngoài ra, người Ê đê còn có một
loại chiêng là chiêng ống (ching Kôk) : gồm 7 ống lồ ô to bằng cổ tay, 1 đầu
bịt bằng các mắt ống, 1 đầu rỗng. sáu ống được cắt vát khoảng 1 nửa ống ở đầu
rỗng, 1 ống để nguyên. Khi diễn tấu, cầm lỏng tay theo chiều thẳng đứng(phần
đầu ống bịt ở phía trên) bằng các ngón của tay trái ở đầu nguyên, không bị vát,
cách đầu ống khoảng 5-7 cm. Tay phải cầm rùi tre hoặc gỗ, 1 đầu rùi được bịt
vải, hoặc cao su.
6.4.1 Chiêng tre
Bộ Cing kram (chiêng tre)
thường có từ 5 - 9 chiếc, đôi khi cũng tăng lên gần 20 chiếc. Cũng giống như
dàn chiêng bằng đồng, mỗi dàn chiêng tre là một hợp xướng âm thanh, tương ứng
với dàn Chiêng đồng.
Hình thức diễn tấu: mỗi nghệ
nhân đặt ngang thanh tre trên đùi, dùng rùi gõ vào mặt hơi cong lên (mặt cật)
của thanh tre. Nếu có cộng hưởng sẽ kẹp giữa 2 bắp chân của nghệ nhân, phía dưới
thanh tre. Khi diễn tấu, nghệ nhân cầm lỏng thanh tre bằng ngón cái hoặc ngón
trỏ.
Chọn
rồi, cây tre được đưa về phơi khô chừng hai tháng, không để nứt nẻ, sau đó tùy
vào đường kính của ống tre mà cắt theo kích cỡ dài, ngắn khác nhau, để tạo âm
thanh trầm, bổng, du dương... (thông thường, dài từ 30 - 45 cm, đường kính từ 8
- 10 cm). Khó nhất là quá trình thẩm âm của chiêng tre.
Mỗi cặp chiêng (ống tre và
thanh tre) phải có một loại âm thanh, giai điệu tương ứng với một lá chiêng
đồng. Chính vì thế, bộ chiêng tre cũng được cấu tạo các kích cỡ, âm thanh khác
nhau, có hệ thống như bộ chiêng đồng với biên chế tương ứng. Và các nghệ nhân
để sử dụng và diễn tấu được cồng chiêng bằng đồng, trước đó đều phải sử dụng
thuần thục chiêng tre.
Trải qua năm tháng, do thời
tiết thay đổi, âm thanh của từng chiếc chiêng tre cũng bị thay đổi theo, bị lạc
“giọng”. Người chỉnh chiêng tre phải vừa có đôi tai thẩm âm kỳ tài, vừa có bàn
tay khéo léo, bởi đồ nghề để chỉnh chiêng tre không phải búa, đe... như chỉnh
chiêng đồng, mà chủ yếu là dùng cưa tay, dao lát cắt, gọt bớt miệng ống tre...
làm cho âm thanh của nó cao hơn hoặc thấp hơn, tiếng chiêng tròn, vang hơn,
đúng với chức năng của nó trong dàn chiêng.
6.4.2. Nhạc Chiêng
Tiếng chiêng Ê Đê có âm thanh chắc, khỏe, dồn dập, ngân và vang xa như khát vọng của chàng Đam San từ thuở nào dám chống lại luật tục mẫu hệ ngàn đời của cộng đồng là ước mơ bắt cả Nữ thần Mặt Trời về làm vợ...
Chiêng Ê Đê mang đậm tính tiết tấu mặc dù những yếu tố còn lại như giai điệu, hòa thanh... vẫn không bị lấn át. Trong 9 chiếc chiêng của cả dàn, trừ chiếc Sar lớn nhất giữ nhiệm vụ bè trầm thì 2 chiếc có núm là M’đú và Ana ching đảm nhiệm phần tiết tấu, 6 chiếc còn lại là 6 chiếc chiêng bằng K’lác là K’na ti, H’lang, Khơc, H’luê khơc, H’luê liang và M’đú khớc diết thực hiện phần giai điệu. Người Ê Đê chỉ dùng dùi đánh vào phía trong các chiêng bằng và vào phía ngoài đối với những chiêng có núm.
Với
người Ê Đê, việc tấu chiêng thường là ở trong nhà. Tại đó những nghệ nhân ngồi
tấu chiêng trên chiếc K’pan (ghế dài – được đẽo gọt từ một thân gỗ, không chắp
nối) truyền thống. Các bài chiêng cụ thể đã có quy định chặt chẽ nhưng tính
ngẫu hứng, tính dân chủ và sự sáng tạo lại là đặc điểm nổi bật trong sinh hoạt
đối với cồng chiêng.
Chiêng Ê Đê có khá nhiều chủng loại như: K’do, Ngansa, M’nhum, Luir, Kur, Loa với các nhóm (nhánh) K’pă, M’thur và Adham, riêng nhóm Ê Đê Bih có chiêng Vắcvei (đặc biệt hơn các nhánh khác từ trang phục cũng như dàn chiêng), cả dàn gồm 6 chiếc nhưng đều là chiêng núm, nếu xếp lồng vào nhau thì các vòng tròn từ cái lớn nhất đến cái nhỏ nhất đường kính của chúng cách đều một đốt ngón tay cái (theo thứ tự)... Các dàn chiêng Ê Đê nhìn chung đã có âm hưởng giống nhau nhưng âm khí lại khác nhau, tuy vậy khoảng cách về cao độ giữa mỗi chiếc trong cả dàn vẫn phải là những hằng số.
V.Tổ chức xã hội
1. Buôn và thiết chế buôn
a.Cơ cấu buôn
Toàn bộ xã hội ÊĐê được phân
thành những đơn vị cơ sở gọi là buôn, tương ứng với khái niệm về làng của người
Việt. Các buôn đã qua nhiều biến đổi dưới thời mỹ ngụy, nhưng tính cộng đồng
của nó vãn còn rõ nét.Dưới buôn có khi có những đơn vị nhỏ hơn gọi là ahi(như xóm) nhưng về mặt kinh tế-xã hội
và văn hóa thì nó chỉ là những bộ phận hữu cơ của buôn. Nó có thể trở thành
buôn khi số dân phát triển và có mâu thuẫn với làng gốc.Hợp thành buôn là những
gia đình lớn(thường là gia đnh lơn mẫu hệ). Các thành viên trong buôn đều là
thân thuộc của nhau hoặc cùng huyết thống, hoặc do quan hệ hôn nhân . Do đó
quan hệ cộng đồng buôn được duy trì khá bền vững. Xưa kia trong các làng Ê Đê,
những gia đình có cùng họ thường cư trú bên nhau với người trưởng họ(khoa djuê) đứng đầu, có lai lịch về
dòng họ và những tập tục sinh hoạt riêng, song về sau mối quan hệ cư trú đó đã
bị phá vỡ.
Tinh thần cộng đồng của buôn
thể hiện ở sự giúp đỡ nhau trong sản
xuất và sinh hoạt. Từ lâu ở họ tại hình thức gọi là “bring”, hình thức đổi công tự nguyện đối với nhiều khâu canh tác
của các gia đình trong một buôn. Sự giúp đỡ lẫn nhau đó có vai trò quan trọng
trong cuộc sống, là một truyền thống tốt đẹp của buôn nhưng lại mang tính chất
bình quân chủ nghĩa mặt khác thể hiện sự trì trệ của các quan hệ tiền tư bản
chủ nghĩa . . Xét về quá trình lịch sử, tính cộng đồng của buôn là 1 truyền
thống tốt, nhưng mặt khác cũng là một thể hiện sự trì trệ của các quan hệ tiên
tư bản chủ nghĩa.Chế độ tư hữu dựa trên cơ sở chiến hữu tư nhân và thừa kế tài
sản từng gia đình ,từng cá nhân đối với đất đai, rừng núi, đã nẩy nở từ lâu
nhưng phát triển chậm. Sự phân công lao động vẫn theo lối tự nhiên, việc trao đổi sản phẩm còn ở mức độ và hình
thức thấp. Dưới chế độ Mỹ - Nguỵ ở trung tâm đắc lắc và bên lề dưới quốc lộ mới
bắt đầu có những khu đất trồng cà phê của tư nhân.
Xưa kia, khi đến làng Ê đê,
người ta cũng có thể nhận thấy những ngôi nhà của giầu có một số nét phân biệt
nỗi bật so với những ngôi nhà khác trong làng. Đó nhà những ngôi nhà dài có khi
đến 200 mét, sàn hiên rộng, cầu thang to
bản trang trí hình nồi. Phía đầu sàn thấy hai cột nhô lên là một biểu hiện chỉ
có những gia đình nuôi voi. Trong nhà có nhiều trang trí, có ghế dài
kphan, ghế jhưng, độc mộc, những đồ chỉ có ở nhà giầu có vị trí xã hội cao
mới làm được. Nhà giầu, mdrong, ngoài thóc dư thừa còn nhiều
của quý như đồ trang sức, bát đĩa bằng sứ và bằng đồng, chiêng, ché, nồi đồng,
chăn, áo, nhiều trâu bò mà theo quan niệm của họ thì có những thứ đó mới là “con
người”. Nhà giầu còn có nô lệ, gia đinh, tôi tớ. Trong số những người
nhà giầu phân biệt thành: Mdrong prong , Mdrong ana Mdrong puk
sang
, người nghèo là bun rin, người quá nghèo là bun hin rin táp. Để có vị
trong xã hội và được thừa nhận là lớp người trên của địa phương, ngoài sự giầu
có còn, phải tổ chức một số lễ hiến sinh cúng cho bản thân mình (ngã
yang asei mlei) để có dịp khoản đãi dân làng.
Nghi lễ phong tục này cũng có
nhiều tang vật mà thứ tự nhỏ đến lớn như sau:
1.Mnu tlao, kpiê tlao :
Hiến sinh 3 con gà và ba chén rựơu cúng 1 lần
2.Un bong, kpiê tlao : Hiến
sinh 3 con lợn chưa thiến và 2chén rựơu cúng3lần
3. Un kreo, kpiê êna : Hiến sinh 1 con lợn và 5 chén rựơu, cúng 2
lần
4. Un kreo, kpiê êma : Hiến
sinh 1 con lơn thiến và 7 chén rựơu cúng 1 lần
5. Emô knô, kpê êma : Hiến sinh 1 con bò đực và 5 chén rựơu,
cúng 2 lần
6. Kbao knô kpiê êma : Hiến sinh 1 con trâu đực và 5 ché rựơu,
cúng 2 lần
7. Kbao knô kpiê kjuh:
Hiến sinh 1 con trâu đực và 7 chén rựơu, cúng 2 lân
Với sự phân hoá tài sản, thì
trong lòng công xã hình thành và tác khỏi quần chúng lao động những gia đình
giầu mạnh hơn, có uy thế và địa vị xã hội cao. Hơn có thể gọi là tầng lớp trên
của xã hội. Những ngày nay, khi có lao động nhưng cũng đã bóc lột quần chúng,
sử dụng nô lệ trong nhà, nhận của biếu xén, cho vay nợ lãi, mượn nhân công. Nô
lệ gia đình thường là những chiến tù, và những người goá bụa và người nghèo không
nơi nương tựa, những người mắc tội không có của nộp phạt. Họ có thể có gia
đình, có bếp ăn riêng ngay trong nhà chủ. Những được chủ thừa nhận là tốt, có
thể được giải phóng và trở thành người tự do (ên giê ). Song, xưa kia
buôn bán nô lệ sang Lào, Thái lan, đôi khi có người biến thành vật tuỳ táng của
chủ. Lớp người đông đảo nhất trong xã hội vẫn là nông dân, dân tự do của công
xã với kinh tế và nhà ở riêng.
Chế độ tư hữu dựa trên cơ sở
chiếm hữu tư nhân và thừa kế tài sản từng gia đình, từng cá nhân đối với đất
đai, rừng núi đã nảy nở từ lâu nhưng phát triển chậm. Sự phân công lao động vẫn
theo lối tự nhiên, việc trao đổ sản phẩm
còn ở mức độ và hình thức thấp.
Đứng đầu buôn làng là Pôpinea,
người “đầu bến nước. thực tế thì người này ngoài việc trông nom bến nước, còn
điều hành quản lý mọi công việc của buôn về các mặt dân chính quân sự, an ninh,
thần quyền và quan hệ với bên ngoài. Giúp việc về quân sự cho Pôpinea có K’eng, về tòa án có pôphátkeli
,về cúng bai có pôriuyang (người
tế tự) và miâo (thày cúng) . Bộ máy
quản lý buôn tồn tại cho đến những năm đầu thế kỷ này. Về sau, vai trò người
đầu làng truyền thống có giảm đi do sự xuất hiện các khoa buôn thuộc hệ thống
chính quyền địa phương
b.. Thiết chế buôn
Các gia đình trong buôn chủ yếu
dựa trên cơ sở sản xuất vật chất và không gian
Tính cố kết của sinh tồn là
điều kiện quan trọng hàng đầu.Mỗi buôn có một phạm vi đất đai của mình được xác
định và được các buôn láng giềng thừa nhận . Các buôn đối với phạm vi đất đai
của mình có quyền sở hữu và nhiệm vụ bảo vệ cũng như quyền lợi khác mà mỗi
thành viên có quyền sử dụng theo tập tục. Mặt khác nhân dân các buôn vẫn có thể
sử dụng đát đai ngoại vi của các buôn khác nếu được buon sở tại đồng ý. Các gia
đình không chỉ chiếm hữu những đất đai đang canh tác mà cả những đất đai hữu
canh. Mảnh đất mới được khai thác thuộc phạm vi của người canh tác nó nếu ai
xâm phạm phạm vi đó sẽ bị coi là hành vi
“đạp lên đầu” có thể bị phạt .
Luật tục Êđê vẫn tuân thủ cách sắp xếp nội
dung của L. Sabatier trước đó, cụ thể là chia 236 điều (song ngữ Êđê – Việt) ra
thành 11 chương, như sau:
Chương
I: Các qui
định mở đầu: 23 điều
Chương
II: Về các
tội xúc phạm đến người đầu làng: 33 điều
Chương
III: Về các
tội của người trưởng thôn: 11 điều
Chương
IV: Các vi
phạm lợi ích cộng đồng: 27 điều
Chương
V: Về hôn
nhân: 48 điều
Chương
VI: Về quan
hệ cha mẹ - con cái: 6 điều
Chương
VII: Về tội
gian dâm: 11 điều
Chương
VIII: Các
trọng tội: 21 điều
Chương
IX: Về của
cải, tài sản: 38 điều
Chương
X: Về trâu bò
gây thiệt hại cho người ta và trâu bò bị người ta làm thiệt hại: 10 điều
Chương
XI: Về đất
đai và người chủ đất: 8 điều.
Trong phạm vi tập hợp này, nếu
như số lượng các điều khoản phản ánh tính chất quan trọng (hoặc phức tạp) của
vấn đề thì có thể sắp xếp trật tự của các điều khoản ấy như sau: Với 48 điều, hôn nhân đứng đầu bảng (chưa kể
11 điều về gian dâm), tài sản đứng thứ 2 (38 điều), tiếp đến là tội xúc phạm người đầu làng (33
điều); trong khi đó, quan hệ cha mẹ
- con cái (6 điều) đứng cuối cùng và trên nó là vấn đề của đất đai và người chủ đất, với 8
điều… Thực tế chỉ ra rằng không chỉ trong xã hội Êđê xưa, hôn nhân (theo truyền
thống mẫu hệ) mới là vấn đề đáng quan tâm nhất mà ngày nay, điều này dường như
vẫn còn nguyên giá trị. Tương tự như vậy, nhưng ở hướng ngược lại, cho đến những
năm gần đây, việc sở hữu đất đai trong tư duy của người Êđê nói riêng, đồng bào
các dân tộc thiểu số Tây Nguyên nói chung cũng chưa hề chặt chẽ - luật tục chỉ
dành cho nội dung này có 8 điều
*Luật bảo vệ rừng
Luật tục Ê Đê quy định rất rõ
về các tội đốt, phá rừng.
Điều 80 của luật tục Ê Đê nói
rằng: “Đàn ông thường đốt lửa bừa bãi, đàn bà thường đốt lửa bậy bạ, có những
người đốt lửa mà làm như kẻ điên, kẻ dại. Cây le đang đâm chồi thế mà họ chặt
mất ngọn, cây lồ ô đang đâm chồi thế mà họ chặt mất đọt. Nếu người ta bắt được
họ đem cho người tù trưởng nhà giàu thì chân họ tất phải trói lại ngay, tay của
họ tất phải xiềng lại ngay. Cả rừng le bị cháy khô, cả rừng lồ ô bị cháy trụi,
hang thỏ, hang chồn đều bị thiêu trụi tất cả. Vì vậy có chuyện nghiêm trọng cần
phải xét xử họ”.
Luật tục cũng răn dạy dân làng
không được mang củi cháy dở vào rừng: “Ai có con phải dạy con, ai có cháu phải
dạy cháu, kẻo đi hái củi mà không biết đi, đi suối lấy nước mà không biết đi. E
rằng họ sẽ đốt đuốc cầm theo. E rằng đi rẫy lo việc nương rẫy mà không biết đi,
cầm theo những đầu cây cháy dở có thể huỷ diệt cả rừng… Cho nên biết được con
đàn bà ấy là ai, thằng đàn ông ấy là ai thì việc xét xử phải đi đến bồi thường.
Về hôn nhân, chương V, điều 109, qui định: “Đã lấy vợ thì phải ở với vợ cho
đến chết; đã cầm cần mời rượu thì phải vào cuộc cho đến khi rượu nhạt; đã đánh
cồng thì phải đánh cho đến khi người ta giữ tay lại”. Do đó “nếu đã nhận làm
chồng người ta mà anh không lấy người ta nữa, thì tội thuộc về anh”… (điều 110).
Đối với gian dâm, người
Êđê chia ra các hành vi loạn luân, thông dâm và hiếp dâm. Theo đó, hiếp và
cưỡng dâm nữ vị thành niên là những tội nặng. Bởi “hắn đã ép đứa bé như ép ngựa
chịu cương, ép trâu phải chịu thừng, dỗ dành đứa bé bằng vòng đồng (đeo tay) và
chuỗi cườm (…) Hắn vồ như một con cọp, sáp lại như một con thú, hành động như
con chó con lợn, mà không biết hổ thẹn”. Nên “như con lợn con trâu để hiến
sinh, hắn sẽ phải chịu vì những việc hắn đã gây ra” (điều 155).
Bên cạnh những hình phạt khắt
khe (lấy một đền ba là một ví dụ), luật tục Êđê còn có những điều có nội dung
răn đe, giáo dục, nghe ra tưởng nhẹ nhàng nhưng thật sâu sắc. Ở chương IV,
những người có hành vi lang thang, lêu lổng, không chịu ở lại làng
mình được “nhắn nhủ” rằng: “Chừng nào hắn còn sống, hắn giống như
con trâu rừng. Đến khi hắn chết, hắn sẽ giống như con trâu ma. Khi hắn đã biến
thành con chim diều (khi hắn đã chết rồi), không một ai thấy thương tiếc hắn”.
Thành ra, “hắn là cái nong sổ vành không ai cạp lại được (…) Người ta sẽ để mặc
hắn cho số phận của hắn trôi theo dòng nước” (điều 68). Những ai đã từng sống ở
các buôn làng Tây Nguyên sẽ hiểu được sức mạnh của những lời nói vần tưởng như
nhẹ nhàng này. Không gì đau khổ hơn khi bị các thành viên trong cộng đồng ghẻ
lạnh, không gì nhục nhã, ê chề hơn là bị đuổi ra khỏi làng. Đó là điều mà bất
kì một người Êđê, Jrai, Bahnar,… nào đều phải ý thức.
Để giữ vững tính cộng đồng của
buôn theo phong tục tập quán, việc xử kiện cũng được chú trọng và người chuyên
làm nhiệm vụ này gọi là Pô phat Kdy. Những người này thường xuất thân từ tầng
lớp trên, am hiểu luật tục và chịu trách nhiệm dứng ra xử các vụ kiện giữa các
thành viên trong buôn. Thường ngày thì những người xử kiện không tồn tại với
một tư cách là người của một cơ quan quyền lực, khi có việc xét xử thì toà án
lập ra gồm 3 người; một người làm nhiện vụ chính, 2 người làm đại diện cho hai
bên bị cáo. Họ dựa vào tập quán để luận tội, nhưng cũng còn dùng biện
pháp có tính chất mê tín.
Ví dụ :-Việc hai bên bị cáo
nhai gạo. Khi nhổ ra, ai còn nguyên những hạt gạo là người thua.
Cả hai người lặn xuống nước, ai
nổi lên trước thì bị tội.
Nung chì nóng, đổ xuống lòng
bàn tay có lót bảy lớp lá, nếu chì chảy ra bảy lớp lá và bị bỏng tay thì
người đó có tội (xử ma lai).
Để tìm những kẻ thủ hoá mà theo
quan niệm của đồng bào đã làm cho mưa nắng thất thường, mùa màng thất bát.
Người ta lập một đoàn quân đánh chiêng trống đi khắp các nhà trong buôn, khi
đến nhà nào đột nhiên tiếng chiêng trống đột nhiên bị rè và nhỏ thì
người trong nhà đó phạm tội.
Khi bên nguyên, bị cáo đã
được xét xử song thì bao giờ cũng kèm theo những hình thức phạt người thua kiện
tuỳ theo loại tội, nhưng nói chung là phải bồi thường cho kẻ thắng cuộc và đãi
dân làng bằng rượu thịt rất tốn kém và chấm dứt oán thù hai bên.
2.Gia đình
Ngoài hệ thống tổ chức buôn,
trong quan hệ xã hội người ÊĐê còn có Pôlăn là người đại diện cho quyền sở hữu
đất đai dòng họ .Người Ê Đê cho rằng, tất cả dòng họ của mình đều sinh ra từ 2
dòng họ gốc Niê và Mlô, trong đó họ NiêKdăm là họ làm chủ đất , Pô
lăn quản lý đất đai. Pô lăn là
người đại diện cho quyền sở hữu đất đai của dòng họ. Phạm vi đất đai một Pô lăn
quản lý có thể từ một đến vài buôn . Ngược lại có khi một buôn lại có
nhiều Pô lăn. Pô lăn do người đàn bà dảm nhiệm, là người giữ vật thiêng của dòng
họ, được coi là do thần ban cho.
Hạt nhân của gia đình là người
đàn bà cùng chồng và con gái của mình hay nhiều người có quan hệ chị em ruột
với nhau hoặc chị em họ bậc hai. Sinh hoạt gia đình đông người tất yếu dựa trên
những nguyên tắc nhất địn, nổi bật là dân chủ, bình đẳng, công bằng, nhường
nhịn nhau, do một người(đàn bà) gọi là Khoa
sang điều khiển, bà chủ hướng dẫn con cháu làm ăn và giúp đỡ nhau. Thừa kế
tài sản theo dòng nữ. Con mang họ mẹ và hôn nhân cư trú bên nhà vợ.
Về quan hệ hôn nhân thì hôn
nhân chị em vợ và hôn nhân anh em chồng tương đối phổ biến mà người Ê Đê gọi là
nối nòi(chuê nuê). Tập quán qui định: “gẫy cái rùi thì phải thay thế, gẫy
cái giát thì phải thay thế, người chết phải nối”. Chồng chết, người đàn bà góa
có quyền đòi hỏi nhà chồng một người em chồng thay thế, và cũng như vậy đối với
người đàn ôn. Theo tập tục Ê Đê, người ta chỉ có thể lấy em của người quá cố mà
không thể lấy anh hay chị. Họ còn có tục nối nòi khác là: cháu lấy mợ, ông lấy
cháu.nhưng là cháu nội không phải cháu ngoại . Bên cạnh đó, hình thức hôn nhân
khá phổ biến là con trai cô lấy con gái cậu theo quan niệm người đàn ông họ này
có nghĩa vụ kết hôn với người đàn bà ở họ kia, trong khuôn khổ người của Niê lớn phải nuôi M lô và ngược lại. Bởi vậy một số họ như Hdơk (M lô) và Niê KDăm (Niê)
ở buôn Co sir chẳng hạn đã gần mười
đời có quan hệ hôn nhân với nhau.
Những tàn tích của tổ chức
lưỡng hợp cũng được thể hiện rõ nét trong trong hệ thống thuật ngữ thân tộc.
Người đàn bà gọi các con của chị em gái mình như gọi con của chính mình là Anek(con), gọi các con của con chị em
gái mình là Kchô (cháu) ; nhưng gọi
con của chị em gái chồng là Amuôn .
Còn Ê gô gọi tất cả chị em gái cả mẹ mình là A mí(mẹ), gọi những người chồng của chị em gái mẹ và bố đẻ là A ma (cha. Có khi người ta gọi anh em
trai mẹ là Awa A miết và người nà gọi người kia là A muôn (cháu ngoại), nhưng quan hệ cậu cháu lại tương ứng với Kmhà (bố vợ) và Mtâo (con rể).
VI. Phong Tục Tập Quán
1.Tang ma
Khi trong nhà có
người qua đời,người nhà sữ gõ thanh la báo tin cho buôn làng tới chia buồn và
giúp việc chôn cất.
Khi buôn làng đã
tới,chủ nhà sẽ nhờ người len rừng đẵn cây về đẽo áo quan. Nhà nghèo chôn vào
một áo quan , kẻ giàu chôn vào hai áo quan.
Tang lễ thường kéo
dài vài ngày vì dân tộc này không làm sẵn cỗ thọ. Gia đình giàu có đôi khi có
đôi khi còn kéo dài tới 15 ngày. Trước và sau khi chôn người Ê Đê đều cúng lễ.
Chôn cất xong dân làng còn tụ tập quanh mộ khóc lóc hai ba ngày nữa.
Mộ được đắp rất to,
cạnh mộ là bát đĩa, chum vại người sống chia phần cho người chết. Tang ma bố mẹ
do con gái lo và người con này được hưởng gia tài của người quá cố. Vào mùa gặt
năm sau, người nhà ra mộ khóc, lần cuối cùng rồi bỏ hẳn không chăm nom gì nữa.
Tang ma của người Ê
đê thường được chia ra làm 4 công đoạn :
+ Báo tang
Người ê đê quan niệm có 2 loại chết :
chết lành và chết dữ. Chết lành là chết tại nhà, do bệnh tật, già yếu, linh hồn
sẽ về với tổ tiên và nhập vào trẻ sơ sinh. Chết dữ là chết bất đắc kỳ tử, do
tai nạn( chết sông, chết suối, ngã cây, hổ vồ...). Họ quan niệm chết như vậy
linh hồn bị thần ác bắt giữ, không về với tổ tiên, không đầu thai làm kiếp khác
được.
Khi trong gia đình có
người chết, tang gia đánh một hồi trống báo cho dân làng biết. Nghe tiếng trống
cả làng kéo đến, giúp tang gia lo liệu ma chay. Mọi người trong làng mang đến
gói cơm, quả trứng đến viếng người chết. Người ta còn mang đến cho tang chủ
những đồ cúng biếu như : gạo, rượu, gà, có khi cả trâu, heo...Những người
không có thì đến giúp việc cho tang chủ.
Người vừa chết được
coi là sợi dây liên lạc giữa thế giới người sống và người chết.Và cũng chỉ
trong dịp naỳ thân chủ lại kéo nhau đến mộ khóc gọi vong hồn người đã khuất.
Trong những ngày
tang, dân làng đều ngừng sản xuất, không mua bán, trao đổi, không đi xa làng.
Thi thể được các
thành viên trong gia đình lau chùi sạch sẽ, mặc quần áo ngày lễ, và đeo đồ
trang sức quý giá. Thi hài được phủ chăn kín ở phòng cuối nhà sát góc phía đông.Một quả trứng
luộc, bát cơm được bày lên mâm cúng. Thịt gà moi lòng bỏ ruột rồi kẹp cả con
nướng dựa vào bên vách phía để thi hài.
+ Nhập quan
Người Ê đê kiêng việc làm sẵn cỗ quan tài.
Khi có người chết, họ mới lên rừng, chọn gỗ làm áo quan. Hình khối quan tài
giống như sàn nhà, ddaauf bao giờ cũng to hơn cuối từ 10-15cm. Trên đỉnh nóc
phía đầu áo quan, gắn mô hình con diều hâu tượng trưng cho linh hồn người chết.
Áo quan vẽ các hoa văn hình kỳ dã và hoa erang bằng máu con vật được hiến sinh.
Trong thời gian làm áo quan những người ruột thịt của người quá cố phải ăn uống
và ngủ xung quanh thi hài để tỏ nỗi niềm đau buồn và thương tiếc . Tối người ta
đánh chiêng, gõ trống, thổi đing buốt, đing tuốt, đing năm và múa hát suốt đêm
để tiễn linh hồn người thân sang thế giới bên kia.
Áo quan làm xong
người ta đưa thi hài vào làm lễ cúng hồn người chết một lần nữa. Vật hiến sinh
là heo, gà , hoặc trâu, tùy theo gia đình nghèo hoặc giàu. Những đồ dùng của
người chết điếu, nhạc cụ, trang sức, cũng được
bỏ vào áo quan.
Khâm niệm xong hai họ
họp lại để tìm người thay thế( nối dây)
cho người chết.( Tục nối dây được thực hiện ngay sau ngày có tang, lúc
thi thể còn để ở nhà. Khi đã chôn thì không nối dây được nữa, linh hồn không
phù hộ). Người ta làm lễ cúng cho người quá cố và người thay thế. Trong buổi lễ
thầy cúng lấy một bông hoa rừng cài vào tay người thay thế, rồi khấn với linh
hồn người quá cố về chứng giám và phù hộ cho họ. Sau đó người thay thế và người
góa cùng ăn cơm và uống rượu như mọi hôn lễ. Sau lễ này, tài sản và quyền thừa
kế chuyển sang cho người thay thế. Nếu không nối dây được lúc này thì người
sống chỉ được đi bước nữa với người ngoài sau khi làm lễ bỏ mả cho người chết.
+ Đưa tang
Thông thường sau khi nhập quan một ngày
là bắt đầu đưa chôn. Khi đưa tang, người ta thường đem theo một con gà mẹ và
một con gà con. Lúc hạ huyệt, gà mẹ đươc thả xuống đẻ làm tài sản cho người
chết về thế giới bên kia, con gà nhỏ thì sau khi chôn cất xong thả nó chạy vào
rừng, tượng trưng cho sự giải thoát của linh hồn và sẽ không về quấy rối người
sống.
Trong tang lễ người
đàn bà chủ nhà đóng vai trò chủ tang. Người chồng là người giúp việc. Đàn ông
lo việc làm áo quan, múc nước đổ vào ché rượu, làm thịt trâu, bò. Công việc
trông coi tang lễ và tiếp khách đến phúng do người đàn bà đảm nhiệm. Khi đưa
tang, quan tài được khiêng ra sàn và chuyển xuống sân. Thầy cúng cầu tiễn hồn,
tang chủ đi trước, thầy cúng bước theo sau, rồi tiếp đến những người khiêng
quan tài. Những người phụ nữ cùng dòng họ với người chết theo sát áo quan than
khóc và mang của cải ra mộ. Đi sau cùng là người đánh chiêng và người chôn cất.
+ Hạ huyệt
Trước khi hạ huyệt, người ta thịt những con vật làm lễ cúng đưa linh hồn
về với tổ tiên. Phía đầu áo quan đặt một nồi cơm, một ché rượu, để hàng ngày
thân quyến mang cơm rượu tới đổ vào đó qua ống cơm. Các tài sản của người chết
như chiêng, ché, nỏ... cũng được bỏ luôn dưới mộ. Trên mộ chỉ bỏ một cái vò
sát, chổi cùn, tang nải.
Quan tài được tô điểm bằng ba màu đen,
trắng, đỏ, các hình dọc, vuông, tròn, hình trăng lưỡi liềm, và chạm khắc hình
sừng trâu. Huyệt sâu khoảng 1,8m theo chiều dài đông – tây. Miệng huyệt rộng
khoảng 1m. Quan tài hạ xuống người ta lát ván lên mặt huyệt, rồi mới lấp đất,
nền cao khoảng 50-100 cm. Thợ mộc đóng xong nhà mồ tạm đem tới đặt lên tấm mộ
mới đắp. Bốn góc nhà mồ trống bốn cột kut( là những thân cây nguyên, trên trạm
khắc hình nồi đồng chồng lên nhau, hình trăng lưỡi liềm). Trê đỉnh mộ, người ta
dựng một nhà nhỏ để mỗi lần ra viếng người ta sẽ rót thức ăn vào đó.
Sau khi mai táng, chiếc cầu thang lên xuống hàng ngày được thay bằng
chiếc cầu thang mới sơ sài, hết hạn tang cầu thang mới được đưa ra đóng lại.
Thầy cúng làm lễ tẩy uế cho tất cả các thành viên trong nhà. Ông ta lấy rượu
hòa với huyết con vật hiến sinh rồi xoa vào chân từng người để ngăn chặn thần
chết làm phiền người sống. Ba ngày sau khi mai táng, tang gia lấy một ché rượu
làm lễ xóa cữ cà các thành viên trong gia đình sinh hoạt bình thường.
2.Cưới xin
Người Ê ĐÊ theo chế
độ mẫu hệ, vì vậy trong gia đình cũng như ngoài xã hội, người phụ nữ có quyền
sinh quyền sát. Một trong những quyền đó là quyền cưới chồng, con gái lấy họ mẹ
à có vị trí đặc biệt trong gia đình. Khi đến tuổi trưởng thành, các cô gái Ê Đê
có nhiệm vụ đi tìm bạn trăm năm qua các cuộc lễ lạt, hiếu hỉ, cúng viếng và đặc
biệt là lễ hội mùa xuân. Sau mùa gặt hái bội thu, mùa lễ hội các buôn làng thật
tưng bừng. Đây là dịp để các cô gái thực hiên công việc trọng đại của mình –
tìm bạn trăm Trong những cuộc dao duyên đó, nếu chàng nào lọt vào mắt xanh của
cô gái , thì cô về nhà thưa chuyện với cha mẹ để nhờ mai mối đến nhà trai đánh
tiếng dạm hỏi. Trước khi đáp lời mối dạm hỏi, cha mẹ chàng trai phải hỏi ý kiến
con .Nếu chàng trai đồng ý hai bên sẽ làm lễ ‘ trao vòng’ (ăn hỏi). Nhà
gái trao cho ông mối một vòng đồng (hoặc chuỗi hạt cườm) và một ghè rượu ngon
để làm lễ . Ngược lại nhà trai cho nhà gái một vòng đồng để đính ước. Sau lễ
này, nhà trai làm lễ thết nhà gái . Trường hợp chàng trai không đồng ý thì lễ
hỏi phải dừng lại, chờ cho đến khi sợi tơ hồng cuốn chặt
Lễ hỏi và
cưới
Ngày nay, người Êđê
vẫn còn giữ nét văn hóa truyền thống rất đặc sắc trong nghi lễ hỏi - cưới theo
chế độ mẫu hệ. Tập quán này không chỉ có riêng đối với người Êđê mà còn có ở
nhiều dân tộc thiểu số khác đang sinh sống tại Việt Nam. Theo truyền thống đó,
người con gái đi hỏi và cưới chồng , chủ động hoàn toàn về mọi phí tổn trong
hôn nhân; con trai đi làm rể bên nhà vợ.
Với hình thức hôn
nhân này, các quy định theo luật tục rất nghiêm khắc trong quan hệ hôn nhân. Để
đảm bảo duy trì hôn nhân hạnh phúc cho mọi gia đình, nếu có trường hợp vi phạm
chế độ một vợ một chồng thì bị phạt rất nặng như phạt trâu, bò, chiêng,
ché...tùy theo mức độ vi phạm và khả năng đáp ứng hình phạt của người vi phạm
mà thường do trưởng buôn quyết định. Những nghi lễ trong đám hỏi và đám cưới
cũng có nhiều điểm độc đáo.
*Lễ hỏi chồng (Nao Nuh)
Qua thời gian đôi trai gái tìm hiểu nhau, quyết định đi đến thành hôn thì trước tiên phải thông qua đám hỏi. Nhà gái chuẩn bị lễ hỏi gồm một ché rượu và một vòng đồng để cúng thần, sau đó cô gái cùng ông mối đến nhà trai. Nếu ở khác buôn thì những người đi hỏi mang theo cơm nếp với ý nghĩa để đôi trai gái gắn bó với nhau như cơm nếp.
ĐămĐêi (anh, em trai bên mẹ) cầm chiếc vòng đã được cúng thần để hỏi chàng trai, nếu chàng trai ưng thuận thì họ làm lễ trao vòng : Cô gái và chàng trai chạm tay vào chiếc vòng (đây là lời giao ước hôn thú). Từ đó coi như hai gia đình trở thành thông gia, mỗi gia đình cử ra Miết Ava (người đỡ đầu) của mình đại diện cho hai gia đình giúp đôi trai gái nên vợ nên chồng cũng như tham gia khuyên răn và hòa giải những bất hòa giữa hai gia đình.
Nếu trong trường hợp người con trai không đồng ý thì nhà trai làm một nghi lễ nhỏ mời nhà gái đến dự để tỏ lòng tôn trọng và duy trì sự hòa thuận với nhau. Theo quan niệm của người Êđê việc từ chối hôn lễ là từ chối hôn nhân của một dòng họ, ảnh hưởng và gây tổn thương rất lớn đến lòng tự trọng của không những một gia đình mà còn cả một dòng họ. Do đó cần thiết phải có sự thể hiện gắn bó đoàn kết của một cộng đồng dân tộc. Đây là một trong những nét đẹp văn hóa truyền thống của người Êđê.
*Thách cưới
Hai gia đình gặp nhau bàn việc thách cưới do nhà trai đưa ra, thường là thách cưới rất cao. Đồ thách cưới gồm trâu, bò, chiêng, ché và ngày nay có thể là vàng... Nếu nhà trai và nhà gái đồng ý, họ sẽ chọn ngày đưa cô gái về sống tại nhà chồng một thời gian để thử thách.Nếu cô gái không trả nổi lễ vật thách cưới thì phải ở lại làm việc tại nhà chồng cho đến khi hết nợ mới có quyền rước chồng về nhà mình. Lúc này người con gái đó mới có quyền làm lễ gọi chồng. Trường hợp trả không hết nợ (thường là gái mồ côi) thì cô gái phải ở luôn bên nhà chồng. Đôi khi vì đồ thách cưới rất cao nên có trường hợp có con rồi mới làm lễ cưới.
* Lễ gọi chồng (lễ cưới : Yâu ung)
Khi đã đủ đồ thách cưới, nhà gái sẽ trao cho nhà trai và xin cưới, tức là làm lễ gọi chồng. Ngoài đồ thách cưới, nhà gái còn mang sang nhà trai ba lễ vật bắt buộc để trả công cho mẹ chồng :
- 1 chén bằng đồng : Trả công ơn cho mẹ chồng đã tắm cho chồng lúc còn nhỏ bằng thau đồng.
- 8 vòng đồng : Tượng trưng 8 lễ cúng trong chu kỳ sống của một con người trước khi lập gia đình.
- 1 cái chăn : Trả cho mẹ chồng đã địu chồng lúc còn nhỏ
Ngoài ba lễ vật trên còn có
nhiều vòng đồng để phát cho các thành viên của gia đình cồng. Sau đó là Lễ rước
rể.
Nhà trai tiễn con bằng một ché rượu và một con heo. Trên đường về nhà gái, chú rể được tặng nhiều vòng đồng - coi đó là lời cam kết thủy chung và lời chúc tụng hạnh phúc (thường thường, trong khi rước rể, một tốp thanh niên tinh nghịch sẽ đón đường té nước vào chú rể để thay lời chúc phúc cho đôi bạn trẻ).
Trong nghi lễ, khi chủ nhà và khách đã yên vị, mọi người tiến hành lễ cúng cho mẹ chồng 1 ché rượu, 1 con heo.
Sau đó là lễ cúng tổ tiên gồm 5 ché rượu và 1 con heo. Một Đăm Đêi lấy máu con vật hiến sinh bôi lên chân đôi vợ chồng mới cưới, chúc cho hai người 2 miếng cơm với 3 sừng rượu. Vị trưởng họ nhà gái đại diện hai bên trao vòng đồng cho đôi vợ chồng trẻ chạm tay và nhắc nhở lòng chung thủy ở mỗi người. Khách dự lần lượt đi qua mặt hai vợ chồng chúc tụng và tặng quà
* Tục Chuê nuê:
Đây là một luật tục cổ truyền,
tồn tại đã khá lâu và bền vững trong hôn nhân của người Êđê.
Tục Chuê nuê được xem như một
luật tục bình thường, hiển nhiên và được cộng đồng thực hiện một cách tự nguyện
như mọi luật tục khác trong hôn nhân truyền thống từ bao đời nay. Trường hợp
người nuê chênh lệch quá nhiều về tuổi tác thì họ chỉ là vợ chồng trên danh
nghĩa, trường hợp này cũng đã được luật tục điều chỉnh và qui định rõ ràng :”Nếu người goá đã đứng tuổi mà người thay
thế còn nhỏ, chưa đáp ứng được nhu cầu làm vợ(chồng), thì người goá phải có
trách nhiệm nuôi nấng, dạy bảo nuê như một đứa trẻ bình thường khác”.Luật
đã qui định người goá phải “Biết che chở
,chờ đợi nuê , đến một lúc nào đó nuê sẽ làm được nhiệm vụ nối tiếp giống nòi”.
Việc duy trì bảo vệ gia đinh
mẫu hệ không chỉ biểu hiện ở tục chuê nuê mà còn thể hiện trong quan hệ giữa
các chị em gái ruột và con cái của họ nữa. Trong tộc mẹ, những người phụ nữ
luôn luôn xem những đứa con của các chị
em gái ruột hoặc chị em gái họ như con đẻ. Không những thế họ còn nuôi nấng,
yêu thương và chăm sóc nó như chính con đẻ của mình. Những người phụ nữ được
sinh ra cùng một mẹ hoặc một bà không chỉ gọi con mình là con (dam:con trai,con gái:anak) mà gọi cả những đứa con trai, con
gái của chị em gái mình cũng là anak
(con). Tương tự như vậy, những người đàn ông cũng gọi con trai, con gái của anh
em trai mình là anak. Những đứa con
của chị em gái không chỉ gọi mẹ mình là amí
(mẹ) mà còn gọi chị của mẹ mình là amí
prong (mẹ lớn), em gái của mẹ là amí
mneh và dì út thường được gọi là amí
điêt hoặc amí mda (mẹ nhỏ,mẹ
trẻ). Những đứa trẻ cùng bà ngoại (con của các chị em gái cùng một mẹ) đều coi
nhau như anh em cùng một mẹ. Như vậy, việc người phụ nữ trong dòng họ của vợ
chấp nhận làm vợ nuê không những xuất phát từ tình yêu thương với người goá kia
mà còn trách nhiệm và tình thương đối với những đứa trẻ bất hạnh.
Tục Chuê nuê không những tìm
lại sự trọn vẹn của gia đình mẫu hệ, tạo điều kiện cho con trẻ không bị khủng
hoảng về tình cảm, tâm lý mà còn bảo vệ của cải vật chất, bảo vệ gia đình mẫu
hệ. Theo họ, gia đình như vậy mới không
bị “đứt dây”, người còn lại “không bị lẻ đôi đơn chiếc”.
Hiện nay trong hôn nhân của
người Êđê, tục Chuê nuê vẫn còn tồn tại và vẫn được bà con áp dụng ở mức độ đậm
nhạt khác nhau. Tuy nhiên, việc chấp nhận làm vợ hoặc chồng nuê đều được thực
hiện một cách tự nguyện, không ép buộc.
4. Một số nghi lễ của người Ê đê
Lễ cúng sức khỏe,
chúc phúc
1.
Mở đầu một buổi lễ là Bài chiêng đón khách do các cô gái với những
ống dinge lấy nước từ các bến nước của buôn làng.
2. Tiếp theo, những cô gái này thực hiện nghi thức vỗ tay gọi các Giàng núi, sông, nước (Echang Krông pay). Đây là nghi lễ trang trọng trong các buổi lễ của người Êđê.
3. Bắt đầu vào lễ cúng sức khoẻ cho Ylinh Niê (người được chúc phúc). Niê quay mặt về hướng Đông. Theo quan niệm của người Êđê, họ sinh ra từ hướng Đông nên khi thực hiện nghi lễ họ quay mặt về hướng này.
4. Già làng nối cần với Ylinh Niê để cầu chúc sức khoẻ và may mắn cho chàng trai. Tiếng cồng chiêng tiếp tục vang lên. Già làng hát điệu hát phổ biến để chúc phúc sức khoẻ cho người mình muốn nói. Trong lúc già làng hát chúc phúc thì những người đến dự lễ tiếp tục thưởng thức rượu cần. Các cô gái tiếp tục lấy những dòng nước tinh khiết từ các con suối đổ vào trong ché
5. Sau đó, Ylinh Niê cảm ơn mọi người đã đến dự buổi lễ và mời khách cùng uống rượu cần, chúc phúc. Trong lúc này, mọi người cùng nhau múa hát, chúc phúc cho Ylinh Niê.
.
Lễ đặt tên - Thổi tai
Lễ được thực hiện khi con cái được khoảng 16 ngày tuổi.Các lễ vật gồm:
Một chén rượu, một con gà trống (con trai cúng gà trống, con gái cúng gà mái),
một quả cà đắng, một củ nén, một lá ổi rừng (nếu không có lá ổi thì dùng lá
bằng lăng), một chén bằng đồng (đựng nước sương hứng từ trước). Là con trai thì
nên có thêm một cái dùi, một cái đục, một con dao gọt.
Người làm lễ đặt tên - thổi tai
cho cháu bé (theo phong tục của người ê đê, lễ này không đánh chiêng) thường là
các già làng và là phụ nữ. Lễ đặt tên được làm trước. Bà đỡ đặt các lễ vật
trong cái thúng bên cạnh cháu bé và cầu nguyện: "Nay ta đặt tên cho cháu,
nếu cháu ưng tên ta đặt thì cháu hết khóc và ngủ thật ngon. Nếu không thích tên
này, cháu hãy khóc thật to". Sau đó, bà đọc tên từng người trong dòng tộc
đã quá cố. Khi bà đọc đến 1 cái tên mà
cháu ngừng khóc thì tên đó đã được dùng đặt tên cho cháu bé.
Sau khi đọc tên xong, bà lấy
một chút gan gà cho cháu bé ăn, lấy lá ổi nhúng nước sương trong chén đồng bôi
lên miệng cháu bé. Bà cầu nguyện: "Này cháu, ta cho cháu ăn gan này để sau
này cháu gan dạ, uống nước để khi gặp sương gió dãi dầu không quản vất vả, mệt
nhọc cháu nhé! ". Rồi bà lấy nước sương bôi lên tay chân cháu bé và nói:
"Này cháu, ta bôi nước sương lên tay chân cháu, mong cháu siêng năng, chăm
chỉ, bất kể ngày đêm, mưa nắng cũng không sợ".
Tiếp đến là lễ thổi tai: Bà đỡ
cầm một củ gừng, một củ nén (có nơi dùng ống nứa), thổi vào hai lỗ tai của cháu
bé và cầu nguyện: "Này ta thổi gừng này, nén này vào hai lỗ tai cháu, để
tai cháu được thính, mắt cháu được sáng như sao Mai và phải ngoan ngoãn vâng
lời ama, amĩ". Bà cầm cái dùi, cái đục, con dao lên cầu nguyện: "Này
ta cầu mong cho cháu sau này lớn lên có đôi bàn tay khéo léo biết rèn, biết đan
gùi, rổ, rá để dùng".
Cuối cùng bà lấy một sợi chỉ
đen cột vào tay cháu bé để chứng tỏ cháu bé đã được làm lễ đặt tên - thổi tai
và thật sự có tên từ bây giờ.
Lễ đặt tên - thổi tai là lễ
thức quan trọng trong nghi lễ vòng đời của người dân tộc êđê. Lễ được tổ chức
đơn giản nhưng quan trọng trong phạm vi gia đình, dòng tộc. Lễ đặt tên - thổi
tai và lễ cúng cầu sức khỏe là những nghi lễ truyền thống được gìn giữ trong
cộng đồng.
Lễ hội trưởng thành
"Lễ
Thôi Kồng" (MpuTohkoong), còn
được gọi là "Lễ trưởng thành", là một trong những nét văn hóa đặc sắc
của người Ê-Đê. Đây là nghi thức bắt buộc đối với mỗi chàng trai khi đến tuổi
trưởng thành với sự chứng kiến của đông đảo người trong họ tộc và dân làng. Già
làng đóng vai trò là người dẫn dắt các nghi thức diễn ra trong buổi lễ.
Mở đầu, già làng thay
mặt buôn làng, thay mặt họ tộc chàng trai làm lễ cúng Giàng, xin phép thần linh
được làm lễ trưởng thaành cho chàng trai. Các lễ vật của buổi lễ gồm thịt lợn,
gà, rượu cần, cơm. Sau khi cúng xong, già làng dắt tay chàng trai đến bên ché
rượu cần được đặt giữa sân. Chàng trai uống một can rượu rồi theo già làng đến
nơi đặt lễ vật xin tổ tiên được ăn một miếng. Tiếp theo là lễ đổ nước của các
cô gái. Các cô gái vừa cầm ống nước vừa múa rồi đổ nước từ ống nứa vào từng ché
rượu. Bát tiết gà được bưng ra. Già làng thả chiếc vòng bằng đồng vào bát tiết,
chiếc vòng quay theo hướng nào thì hướng đó sẽ là điềm dự báo cho tương lai của
chàng trai. Sau khi cúng Giàng, cúng tổ tiên, già làng đeo vòng vào tay chàng
trai. Đối với người dân tộc Ê-Đê, chiếc vòng là biểu tượng của cuộc sống, chàng
trai sẽ phải đeo nó từ nay đến suốt đời và nó có ý nghĩa là buôn làng đã trao
cho anh sức mạnh để vững vàng bước vào một giai đoạn tiếp theo của đời người.
Người trong họ tộc, trong buôn làng đến chia vui cùng chàng trai bằng cách lần
lượt uống rượu và ăn đồ cúng.
Tiếp theo là nghi thức đạp rìu. Chàng trai được đưa đến bên vò rượu, chân đạp lên lưỡi chiếc rìu đã được bôi tiết gà. Già làng cúng, cầu mong những điều tốt lành nhất sẽ đến với chàng trai rồi cầm bát tiết đi bôi lên từng chiếc chiêng, trống. Sau đó, chiêng, trống nổi lên, ông cậu của chàng trai tiến ra sân cầm theo khiên, giáo bắt đầu nghi thức trao khiên cho chàng trai. Ông rung khiên, đâm giáo theo hướng bắc nam để báo cáo với ông bà, tổ tiên về ngày trọng đại của cháu mình, đâm ngọn giáo về hướng đông tây để xua đuổi tà ma. Kết thúc, ông bước lên 7 bước rồi lùi về, trao khiên cho chàng trai. Chàng trai bắt đầu múa, lắc khiên. Trong khi đó, các cô gái nhảy múa xung quanh tạo cho không khí thêm phần sôi động. Khi chàng trai múa nhanh hơn, say mê hơn, lần lượt các cô gái cầm bát nước té vào chàng trai, chàng trai phải dùng khiên đỡ, gạt nước ra. Đây chính là phần hấp dẫn, vui nhộn nhất của lễ hội và cũng là nghi thức cuối cùng mà chàng trai phải thực hiện trước khi được dân làng và thần linh chính thức công nhận đã trưởng thành. Kết thúc lễ hội, mọi người trong buôn làng cùng nhau uống rượu cần và nhảy múa trong tiếng cồng chiêng rộn rã. Lễ trưởng thành của người Ê-Đê thể hiện tính cộng đồng rất cao vì có sự tham gia, góp sức của cả buôn làng.
Hiện nay, Lễ hội này vẫn được người Ê-Đê gìn giữ, bảo tồn và đóng vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần của họ, hơn thế, làm phong phú thêm kho tàng văn hóa Việt.
*Lễ bỏ mả
Người Ê đê khôngcó tục thờ cúng
tổ tiên, họ chỉ giữ gìn mồ mả trong một thời gian. Trong thời gian sau tang lễ,
thân nhân phải mang cơm rượu ra đổ vào ống ở mộ. Mỗi tháng một lần họ phải cúng
vong hồn người chết đến khi làm lễ bỏ mả mới thôi.
Người Ê đê làm lễ bỏ mả với ý
nghĩa vĩnh biệt vong hồn người chết và không bao giờ nhắc đến nữa. Nói cách
khác lễ bỏ mả là sự tuyên bố đoạn tuyệt giũa người sống và người chết. sau lễ
này linh hồn mới được về với tổ tiên. Lễ bỏ mã là một trong những lễ quan trọng
của người Ê đê, được tiến hành long trọng như tang lễ. Thời gian làm lễ sớm
nhất là một năm, tùy thuộc vào kinh tế của thân nhân người chết. Nghĩa là lúc
nào có đủ rượu, gạo, thịt dâng cúng từ 2-3 ngày mới tổ chức được. Chủ xướng lễ
bỏ mả có thể là một gia đình, một dòng họ, có khi cả buôn. Nhà giàu dòng họ lớn
thì mổ nhiều trâu, bò, buộc nhiều ché rượu. Nhà nghèo thì cũng phải đủ rượu
thịt để cung cấp thức ăn uống, chia phần cho những người dự lễ. Nghi thức chính
của lễ bỏ mả được diễn ra ở khoảng đất rộng của nghĩa địa.thanh niên lên ừng
chặt cây làm nhà mồ mới, dựng cột kut, cột klao( chỉ có nhà giàu, trưởng thành
mới được dựng cột klao) . Trâu, bò, heo được xẻ thịt ngay tại chỗ, rượu cần
được dựng thành hàng quay về hướng đông, bàn cúng được dựng bằng tre nứa. Trên
đó bày những lễ vật cúng cho người chết gồm có một chén cơm trắng, một chén
thịt sồng thái nhỏ trộn tiết con vaatjvuaf bị giết cùng với một mẩu đuôi, một
chiếc xương đầu và bầu rượu được hút từ ché rượu.Xương hàm dưới của con vật bị
giết cũng được treo ở cột klao. Khi hoàn tất lễ cúng, thầy cúng mặc lễ phục
nghiêm chỉnh, ngồi bên ché rượu thịt và đọc lời đoạn tuyệt của người sống với
người chết. Trong buổi lễ này người ta thả con gà con vào rừng để tượng trưng
cho linh hồn không còn bị các thaanfgiam hãm nữa để về với tổ tiên.
Kết thúc buổi lễ, các bà các cô lại gieo lên
mộ những hạt ngũ cốc và trồng một cây chuối ở đầu mồ làm nguồn lương thực cho
người chết ở thế giới bên kia. Sau buổi lễ, mọi người cùng nhau uống rượu thịt
ngay bên mộ. Tiếng trống nổi lên rộn rã, lửa được nhóm lên, mọi người vui vẻ ăn
uống, nhảy múa và trò chuyện cho đến khi thịt hết, rượu lạt họ mới trở về làng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét