Dân tộc Thái
I.Đặc điểm
Dân tộc Thái có khoảng 60 vạn người bao gồm nhiều
ngành, mỗi ngành lại chia làm nhiều nhóm khác nhau:
1.Thái Đen (Táy Đăm)
Cư trú chủ yếu ở 2 tỉnh Sơn La, Hoàng Liên
Sơn và các huyện Điện Biên, Tuần Giáo tỉnh Lai Châu. Ở miền Tây Thanh Hóa và
Nghệ Tĩnh, những nhóm Tày Thanh (Man Thanh), Tày Mười, Tày Khăng đã bị ảnh
hưởng nhiều về văn hóa và nhân chủng của các cư dân địa phương Lào.
Họ đến Việt Nam vào khoảng thế kỉ thứ XI và
XII. Bộ phận Tày Thanh từ Mường Thanh (vùng Điện Biên) qua Lào và Thanh Hóa tới
Nghệ An cách đây hai, ba trăm năm. Nhóm này gần gũi với nhóm Thái Yên Châu (Sơn
La) và chịu ảnh hưởng văn hóa Lào. Bộ phận Tày Mười ban đầu là một phần dân cư
xã Chiềng Pấc di vào Thanh Hóa và Nghệ Tĩnh từ thời Lê Thái Tổ.
2.Thái Trắng(Táy Đón và Táy Khao)
Cư trú chủ yếu ở tỉnh Lai Châu và các huyện
Quỳnh Nhai, Bắc Yên, Phú Yên (Sơn La). Ở Đà Bắc thuộc Hà Liên Sơn, có một số
Thái Trắng đã chịu ảnh hưởng đậm của văn hóa Tày. Ở Sa Pa , Bắc
Hà, những nhóm gốc Thái Trắng ngày nay đã Tày hóa. Một số nhóm Thái ở Thanh Hóa
cũng gốc từ Thái Trắng.
Thái Trắng là con cháu người Bạch Y đã cư
trú từ lâu ở Tây Bắc và Nam Vân Nam .
Nhưng phải đợi đến đầu thiên niên kỉ thứ II sau Công nguyên, họ mới chiếm được
ưu thế ở dọc hữu ngạn sông Hồng và tỉnh Lai Châu. Đến thế kỉ thứ XIII, họ đã
làm chủ Mường Lay. Ở vùng ven song Hồng, họ đến sớm hơn người Thái Đen vì trong
hành trình hành quân, Lạng Chượng đã gặp các tù trưởng Thái Trắng ở dọc đường.
Bộ phận Thái Trắng sau phát triển thế lực sang các vùng Quỳnh Nhai (Sơn La),
Mường Tè (Lai Châu), tới Mường Tấc (Phú Yên) và một bộ phận xuống Đà Bắc và
Thanh Hóa
3.Một ngành khác, gồm nhiều nhóm phức tạp
Cư trú chủ yếu ở Mộc Châu (Sơn La), Mai
Châu (Hà Sơn Bình) và các huyện miền núi hai tỉnh Thanh Hóa và Nghệ Tĩnh. Nhóm
Thái Mộc Châu từ Lào sang vào khoảng thế kỉ XIV chịu ảnh hưởng về nhân chủng và
văn hóa của cả 2 ngành Thái Trắng và Thái Đen. Nhóm Thái Mai Châu gốc từ miền
Bắc Hà (Hoàng Liên Sơn) chuyển về vào khoảng thế kỉ XIV, từ đó xuống Mường
Khoáng (Thanh Hóa) và một số ngược lên Châu Mộc (Sơn La), hòa vào nhóm Thái cũ
đã ở đó. Người Thái ở Thanh Hóa tiếp tục được bổ sung bằng những luồng di dân
từ Lào qua hay Tây Bắc về, có quan hệ qua lại huyết thống với văn hóa và người
Mường. Bộ phận Tày Mường hay Tày Chiềng là nhóm đông đảo nhất ở Nghệ Tĩnh cơ
cấu không thống nhất gồm nhiều nhóm nhỏ họp thành, có mặt muộn nhất ở đất Nghệ
Tĩnh vào thế kỉ XIV. Nhóm đến đầu tiên là nhóm lập nghiệp ở Mường Nọc (Quế
Phong) sau lan rộng ra thành lập 2 trung tam khác: Châu Tiến (Quỳ Châu) và Khun
Tinh (Quỳ Hợp). Một số nhóm ở vùng Cửa Rào trên song Nậm Pao (ngọn sông Lam)
được gọi là Tày Pao hay các nhóm ở huyện Tương Pương, Con Cương đến cùng thời
gian đó hay muộn hơn.
II. Hình thái kinh tế:
Khi đến Việt Nam , người Thái đã biết làm ruộng
nước. Nước là yếu tố quan trọng bậc nhất trong việc trồn lúa, cần quanh vụ và
khi có nước mới bắt đầu cày cấy được. Đồng bào đã phải bỏ nhiều công sức để
hoàn thiện hệ thống thủy nông thích hợp với việc trồng lúa ở những thung lũng
chạy dọc theo các con suối và khai phá them ruộng đồng. Nhiều đoạn trong các
sách sử và truyện kể của người Thái đã ghi chép lại việc khai khẩn đất đai mở
rộng diện tích canh tác ở những vùng ven song Đà từ Quỳnh Nhai qua Thuận Châu,
Mường La đến Phù Yên (Sơn La), vùng Mường Lay, Mường Thanh, Than Uyên (Lai
Châu), vùng Mường Lò, Mường Cha (Nghĩa Lộ nay thuộc Hoàng Liên Sơn), vùng Mường
Hạ, Mường Pa (Mai Châu – Hà Sơn Bình), vùng Mường Khoòng ( Thanh Hóa), vùng ba
huyện Quế Phong, Quỳ Châu, Quỳ Hợp (Nghệ Tĩnh)... Qua nhiều thế hệ, người Thái
đã có nhiều sáng kiến tạo ra những công trình thủy lợi thích hợp với địa thế
ruộng đất. Họ có nhiều kinh nghiệm trong việc đào mương, đắp phai, bắc ống dẫn
nước về ruộng, cũng như trong việc sử dụng một cách phổ biến và rất tài tình
chiếc con nước, một thứ máy móc đơn giản, vào việc dẫn nước vào ruộng.
Cũng đã từ lâu, người Thái biết dung cày và
sức kéo (trâu, bò) vào việc canh tác. Có giả thiết cho tên tự gọi của đồng bào
Táy, chính là tên tự giới thiệu với các cư dân khác tộc mình là người cày
ruộng. Tuy nhiên, trước Cách mạng Tháng Tám, ở một nơi chưa dùng cày, vẫn dùng
lối “hỏa canh thủy nậu”. Đồng bào đốt rơm, rạ, cỏ ở ruộng rồi tháo nước vào cho
trâu quần sục bùn hoặc bừa thẳng không cần cày bằng bừa răng gỗ rồi cấy lúa.
Lối canh tác này thích hợp với tinh chất đất đai ở một số thửa ruộng miền núi
mà ở đây nếu dùng cày hay bừa sâu quá lớp đất màu xốp và mỏng thì lại làm hỏng
đất. Nó chỉ thích hợp khi việc bón phân chưa xảy ra. Việc dùng phân bón từ phân
chuồng, phân bắc, phân xanh cho đến phân hóa học là một biến đổi lớn trong sinh
hoạt sản xuất của đồng bào từ sau ngày giải phóng.
Trước kia, việc gieo mạ và làm mạ có nhiều
cách khác nhau và rất đáng lưu ý. Đồng bào thường ngâm giống vào nước ấm và cứ
20 cân giống lại hòa một lạng muối. Khi hạt mọc mầm, đem gieo vào ruộng mạ.
Cách gieo có nơi cây mạ đã lên cao được hai đốt ngón tay. Khi cây mạ cao 20 –
25 phân, đồng bào nhổ lên cấy đầy vào thửa ruộng mạ khác. Khi cây mạ cứng cáp,
họ lại nhổ lên và cấy vào ruộng. Cách cấy chuyển qua hai thửa ruộng mạ, theo
quan niệm của đồng bào, làm cây lúa khỏe, mọc nhanh.
Nói chung, trước đây, lúa chỉ cấy một vụ,
rất ít nơi hai vụ. Hiện nay, tình hình cấy hai vụ lại phổ biến. Những giống mới
được đem trồng cho năng suất khá cao.
Trước đây, ruộng chỉ cung cấp cho cư dân
Thái một số lượng lương thực hàng năm và cũng không thật đầy đủ để nuôi người
và gia súc. Đó là không kể một bộ phận Thái không nhỏ chỉ sống về nương rẫy.
Nương nhằm cung cấp một số lương thực nhất định: lúa, ngô, khoai, sắn… và một
số sản phẩm khác: vừng, lạc, bầu, bí, rau xanh để dùng làm thức ăn, bông chàm
để đáp ứng nhu cầu về quần, chăn, màn, đệm…Bên cạnh ruộng, nương trở thành một
tư liệu sản xuất không thể thiếu được đồng bào. Nương nhằm cung cấp một số
lương thực thực phẩm nhất định: lúa, ngô, khoai, sắn…và một số sản phẩm khác:
vừng, lạc, bầu, bí, rau xanh để dung làm thức ăn, bông chàm để đáp ứng nhu cầu
về quần áo, chăn, màn, đệm…Nương Thái có 2 loại: nương hay rẫy như nương lúa,
ngô, sắn làm hai, ba năm phải bỏ hóa, thường đi đôi với các công cụ là gậy chọc
lỗ hay cuốc. Nương bông, chàm đã được xới, bón kĩ, có nơi còn bón lót, cày ải.
Loại nương này đã bắt đầu được thâm canh nhưng chưa đến mức độ chuyển hóa thành
ruộng hay thành vườn được. Nương rau cũng ở tình trạng này. Trước Cách mạng, ở
vùng Thái, hiếm thấy những mảnh vườn rau như ở dưới xuôi. Ngược lại, nhà nào
cũng có một loại “vườn treo” dùng để trồng một vài khóm hành hay các cây làm đồ
gia vị. Đó là những máng gỗ đựng đất đặt ở sàn phía sau nhà.
Sau ngày giải phóng, việc trồng lúa có năng
suất cao hơn là nhờ tiếp thu những kĩ thuật và phương pháp canh tác mới. “Nước,
phân, cần, giống” được chú trọng và giải quyết tùy theo khả năng của địa phương
với sự giúp đỡ của Chính phủ. Đã xuất hiện những công cụ cải tiến, những máy
móc loại nhỏ hay vừa… Đất được khai thác mạnh hơn nhờ làm thủy lợi, bỏ phân
tro, tăng diện tích, tăng vụ. Sản lượng lúa có nơi đã đạt trên 4 tấn/ha, trung
bình 2 – 3 tấn/ha.
Nhờ ruộng đất, đời sống cư dân Thái có phần
sung túc hơn cư dân quanh vùng. Nhưng họ cũng chưa thoát khỏi cảnh tháng ba,
ngày tám, những năm đói kém do lũ lụt, hạn hán gây ra.
Họ không bị chết đói là nhờ có rừng
bao quanh có khả năng cung cấp cho họ các thứ củ hay than cây có chất bột. Lại
them, từng mùa, rừng cung cấp các loại rau, quả, hạt dại, nấm, mộc nhĩ, măng,
rêu đá, các loại côn trùng. Dưới khe suối có tôm, cua, ốc, cá nhỏ… Những thứ đó
thường xuyên tham gia vào 2 bữa ăn chính hang ngày của đồng bào. Nên hài lượm
vẫn đóng một vị trí nhất định trong đời sống kinh tế của những cư dân này.
Rừng còn cung cấp cho đồn bào nguyên vật
liệu để làm nhà, đan lát những gia cụ, cung cấp củi đun, dầu thắp sáng, những
cây thuốc và những lâm thổ sản quý. Hiện nay do chính sách thu mua lâm thổ sản
và khuyến khích viêc khai thác và trồng rừng, có hợp tác xã đã thu thập được
những món tiền lớn góp phần nâng cao đời sống xã viên.
Trong rừng, các loại chim, thú là đối tượng
để đồng bào săn bắn. Tuy nhiên, nghề này chưa bao giờ chiếm vị trí quan trọng
vì ở rừng nhiệt đới, thú nhiều đến đâu cũng không thể cung cấp lượng thịt
thường xuyên cần thiết cho con người. Vả lại cư dân trồng trọt, người Thái chỉ
săn bắn lúc nhàn rỗi với mục đích bảo vệ mùa màng. Săn có nhiều thể loại từ lối
săn tập thể có tính sơ khai như lối săn đón, vây ráp để xua thú ngã xuống khe
hay để người đón bắn, hoặc để thú xô vào lưới đã giăng sẵn cho đến cách săn cá
nhân bằng nỏ, bằng súng hỏa mai. Đồng bào cũng săn bằng bẫy, nhưng ít phổ biến
hơn các cư dân ở trên rẻo cao, vì đi đôi với việc chăn nuôi thả rông, bẫy đôi khi
lại có tác dụng ngược lại. Tên tẩm thuốc độc cũng rất ít nơi biết dùng.
Trái với săn bắn, nghề đánh cá phát triển
hơn.“Pây kin pa, má kin lẩu” tức là đi ăn cá, về uống rượu là câu nói cửa miệng
của đồng bào. Cá là món ăn thường thấy trong bữa ăn thường ngày và không thể
thiếu được trên mâm lễ và khi nhà có khách. Nên ngoài việc nuôi cá ruộng tài
tình và phổ biến, hàng năm có thể cung cấp cho mỗi gia đình hàng tạ cá để làm
mắm, sấy khô, các con sông, con suối chảy qua bản là nguồn cung cấp thường
xuyên của đồng bào. Phổ biến nhà nào cũng có một chiếc chài, đơm, đó…có nhiều
loại và mỗi loại có chức năng khác nhau thích hợp với đối tượng và môi trường
đánh cá. Đặc biệt là đến mùa lũ, có cách làm chặng. Suối được ngăn hướng dòng
nước chỉ chảy vào một chiếc cầu tre, một đầu được nâng cao cho nước không chảy
tới. Đến đầu chặng, cá bị mắc cạn không ra được. Nếu chặng to, mỗi mùa nước có
thể thu được hàng chục tạ cá.
Trừ những ngày đánh cá tập thể toàn mường
hay toàn bản được tổ chức vào những dịp có liên quan đến tôn giáo, người dân
dùng lưới quay, duốc cá, làm chặng… hay đánh cá cá nhân đều được hưởng cá bắt
được, không phải chia cho bọn thống trị. Tuy nhiên có nơi chúa đất cũng chiếm
riêng những khúc sông lắm cá, những hang nhiều tôm, cũng như chiếm các hang don,
tổ ong, các khu rừng thú hay về.
Rừng không chỉ là nguồn cung cấp, dữ trữ
nguyên liệu lương thực, là đất để săn bắn, mà còn là nơi chăn gia súc. Ở đây ít
có những đồng cỏ lớn. Nhưng ở từng địa phương, người Thái vẫn tìm kiếm được chỗ
để thả rông trâu bò trong những lúc không dùng chúng vào sản xuất. Xưa kia mỗi
bản hay những bản cạnh tranh nhau thường khoanh một vùng, thường là một
thung lũng hẹp, kín gọi là “púng”. Púng thường chỉ có một lối ra vào. Còn chỗ
nào hở trâu chui qua được thì được rào kín. Trâu sống đó từng bầy, tự bảo vệ
nhau chống thú rừng. Đàn trâu có nơi tới hàng trăm con.
Việc thả rông trâu bò nay không thích hợp
vì đồng bào quanh năm đã cầy cấy vụ này tiếp vụ khác. Hợp tác xã đã phải có kế
hoạch xây dựng chuồng trại và chăn dắt.
Đồng bào chú ý chăn nuôi lợn và gia cầm để
dung vào những dịp tế lễ, cúng bái hay khi nhà có khách và để nộp quan, nộp
chúa. Mỡ lợn được dữ trữ quanh năm.
Các nghề thủ công của người Thái chưa tách
khỏi nông nghiệp và chỉ có thể coi là nghề phụ gia đình. Có thể nói phụ nữ Thái
là những thợ dệt chăm chỉ, lành nghề, sản xuất không những đủ chăn, màn, quần
áo cho gia đình mà còn đem trao đổi. Người Thái nổi tiếng với những tấm thổ cẩm
dệt rất tinh vi với những mô-tip hoa văn hình thú, chim, cây cối. Đôi nơi, họ
có khả năng dệt những hình lãnh tụ nhiều màu. Nghề đan lát là công việc của đàn
ông. Họ chỉ đan những mặt hàng thô kệch dùng hàng ngày.
Lác đác có những bản người Thái có lò gốm,
nơi làm vại, nơi làm nồi, với chiếc bàn xoay thô sơ, năng suất thấp. Người nông
dân Thái kiêm làm đồ gốm này chỉ nhân hàng đặt và sản xuất vào những tháng nông
nhàn. Có một số ít người biết làm nghề bạc, nghề rèn.
Trong xã hội hầu như không có chợ búa, việc
trao đổi hàng hóa thường chỉ hạn chế vào một số nhu yếu phẩm và chủ yếu là dưới
hình thức hàng đổi hàng với các cư dân khác tộc ở rẻo giữa và rẻo cao. Thỉnh
thoảng có những chuyến hàng ngược sông hay những đoàn ngựa, bò của các thương
nhân người Lào, người Miến đem các nhu yếu phẩm đến bán hoặc trao đổi lấy những
sản phẩm địa phương. Ở một vài địa điểm vùng ven biên giới, chợ được tổ chức
định kì. Dưới thời Pháp thuộc, nảy sinh hình thức độc quyền buôn bán của
một số chúa đất. Nhưng khi cách mạng thành công, hình thức buôn bán độc quyền
nhường chỗ cho hình thức thương nghiệp xã hội chủ nghĩa với những cửa hàng mậu
dịch, những trạm thu mua và những hợp tác xã mua bán.
VŨ THỊ THÚY: VĂN HÓA VẬT CHẤT VÀ VĂN HÓA TINH THẦN
III. VĂN HOÁ VẬT CHẤT:
1.
VẬN CHUYỂN
Cũng
như các dân tộc khác ,trong 54 dân tộc anh em,người Thái cũng sử dụng cá phương
tiện vận chuyển cổ xưa: gùi ,cưỡi ngựa,thồ song phổ biến nhất là gánh, còn gùi
theo kiểu chằng dây đeo vắt qua trán là các hình thức vận chuyển thông dụng
trên bộ.
Còn ở dọc các con sông lớn, họ rất nổi
tiếng trong việc xuôi ngược bằng thuyền đuôi én.




Tầm
quan trọng của ăn uống cùng với ở và mặc thiết nghĩ là điều không phải bàn
nhiều.nhưng nếu chúng ta có thể nhắc lại luận điểm rất nổi tiếng của Ăng ghen
và đã trở thành nguyên lý kinh điển là con người trước hết cấn phải ăn, ở và
mặc rồi mới có thể nói đến chuyện hoạt động xã hội, khoa học,nghệ thuật, tôn
giáo …sẽ thấy rằng ăn, ở, mặc có liên quan đến những vấn đền lớn hơn nhiều so
với quan niệm mang tính dung tục, coi miếng ăn là thứ “quá khẩu thành tàn”.
Ngày
nay gạo tẻ đã trở thành lương thực chính của người Thái, tuy nhiên gạo nếp vẫn
được coi là lương ăn truyền thống.
Trong các “đặc sản” nếp có 2 thứ là: Xôi và cơm lam
Trong các “đặc sản” nếp có 2 thứ là: Xôi và cơm lam
2.1. XÔI (khảu ón)
Xôi được đồ từ gạo ngâm qua đem trong những
chiếc chõ gỗ. Nồi để đồ xôi là cái ninh (mỏ
nưng) cao, bằng đồng. Xôi đồ chin được dỡ ra mâm bao giờ cũng phải quạt cho
nguội rồi mới cho lại vào chõ hay các giỏ xôi (ép khảu) để ăn hàng ngày.
Xôi là khẩu phần lương thực thong dụng, và từ xôi người ta làm thành nhiều thứ có giá trị như là quà bánh cho trẻ con, người già ăn lót dạ hay ăn cho ngon miệng. Các món ăn này bao hàm trong đó có cạư quan tâm , tình cảm quý mến mà người ta dành cho người già và con trẻ, Có 3 loại quà như vậy:
Xôi là khẩu phần lương thực thong dụng, và từ xôi người ta làm thành nhiều thứ có giá trị như là quà bánh cho trẻ con, người già ăn lót dạ hay ăn cho ngon miệng. Các món ăn này bao hàm trong đó có cạư quan tâm , tình cảm quý mến mà người ta dành cho người già và con trẻ, Có 3 loại quà như vậy:
+Xôi nướng (khảu chì)
Người ta nắm xôi thành nắm rồi đặt lên than hồng (gọi là lam lho);bóp xôi vo thành cục năm vào đầu que hong trên than (gọi là mó);nắm xôi rồi ấn bẹt thành hình quạt cắm vào đầu que hong than (gọi là vi);bóp xôi lăn thành thỏi dài căm vào đầu que, bôi thêm mỡ hoặc mật mía rồi nướng xôi sẽ phồng , thơm(gọi là ống – súng);nặn xôi thành thỏi rồi uốn nối 2 đầu dính vào nhau, tạo thành hình vòng tay đặt trực tiếp trên than hồng gọi là póc khèn – vòng tay)
Người ta nắm xôi thành nắm rồi đặt lên than hồng (gọi là lam lho);bóp xôi vo thành cục năm vào đầu que hong trên than (gọi là mó);nắm xôi rồi ấn bẹt thành hình quạt cắm vào đầu que hong than (gọi là vi);bóp xôi lăn thành thỏi dài căm vào đầu que, bôi thêm mỡ hoặc mật mía rồi nướng xôi sẽ phồng , thơm(gọi là ống – súng);nặn xôi thành thỏi rồi uốn nối 2 đầu dính vào nhau, tạo thành hình vòng tay đặt trực tiếp trên than hồng gọi là póc khèn – vòng tay)
+Xôi cặp (bái khảu)
Xôi
nặn thành hình đĩa cặp các thức ăn đã được nghiền nát hoặc xé vụn rồi lăn thành
nắm xôi có nhân. Có nhiều tên gọi xôi cặp, chẳng hạn: cặp chứng luộc(bái xáy),
cặp cá (bái pa), cặp ong non(bái to), cặp thịt xé hoặc ruốc(bái nhứa), cặp
đường mía(bái nặm ỏi)
+Xôi vừng(khảu lét
ngạ)
Đây là món xôi trộn cùng vừng đen, có vị ăn ngậy, mùi thơm,món xôi này trước đây còn được dùng như là 1 biểu hiện của sự tỏ tình, hay là muốn nhắc lại tình cũ,nghĩa xưa.
Đây là món xôi trộn cùng vừng đen, có vị ăn ngậy, mùi thơm,món xôi này trước đây còn được dùng như là 1 biểu hiện của sự tỏ tình, hay là muốn nhắc lại tình cũ,nghĩa xưa.
2.2. CƠM LAM (khảu làm)
Cơm
lam là loại cơm chín trong loại ống đặc biệt thuộc họ tre.Gạo đẻ làm cơn phải
là gạo nếp thơm và dẻo. Người ta chọn 1 loại ống bánh tẻ mà thành ruột của nó
có mùi thơm như hương cơm nếp để lam ống lam. Gạo được ngâm trước rồi cho vào
ống với 1 lượng nước vừa phải,sau đó đặt nghiêng trên ngọn lửa xoay đều cho ống
không bị cháy. Nước sôi và cạn thì dập lửa, nướng ống cơm trên than hồng. Cơm
chin lấy ra đẻ nguội, cạo bóc lớp vỏ, ăn rất dẻo thơm mà không ngán.
Món
cơm lam này thường được làm cho sản phụ, nó cũng có giá trị như quà bánh cho
người già,trẻ con ,cho khách quý hay người thân đi xa nhà cần có lương thực
mang theo vài ba ngày.
Nếu
xét dưới góc độ lịch sử thì cơm lam, đồ lam nói chung có thể là những món ăn đã
có từ rất sớm,vì các rừng nhiệt đới Việt Nam và Đông Nam Á rất sẵn tre nứa…..
Với
đặc trưng 1 nền kinh tế nông nghiệp tự cấp tự túc điển hình “cơm cày ruộng, cá
kiếm ăn”, thực phẩm dùng trong bữa ăn của người Thái về mặt so sánh giống với
nhiều tộc người ở Đông Nam Á. Đó là thói quen ăn các loài động vật thuỷan với 1
lượng khá nhiều rau trong bữa ăn.
Sống
trong môi trường thung lũng với hệ thống song suối dày đặc là nguồn cung cấp
thuỷ sản phong phú cho con người, Người Thái có câu tục nhữ “ Lúa ở ruộng, cá ở
nước” ( Khảu dú na, pa dú nặm) hay “
Miếng cơm trắng, khúc cá bạc” (Khảu đón,
tón pa khao) để nói về món cá trong kết cấu của bữa ăn. Ngay cả trong ngôn
ngữ văn chương, đẻ biểu thị mùa cá người ta vẫn dùng những “mùa lúa,mùa cá” để
thể hiện chu kì 1 năm hay nhiều năm. Cũng cần lưu ý rằng do làm ruộng nước mà
người ta có thể đánh bắt cá ngay trong các thửa ruộng, các cánh đồng của mình.Đấy
là chưa nói ở nhiều vùng người Thái có nghề nuôi cá ruộng, 1 nguồn lợi lớn làm
giàu thành phần đạm trong bữa ăn của họ.
. Trước
hết là món cá sống, ăn gỏi ( tiếng Thái gọi là cỏi). Món này chỉ phổ biến đối với đàn ông. Người ta ăn gỏi với các
loại cá chép nhỏ cỡ gần bằng 2 ngón tay, cả con hoặc ăn gỏi loại cá chép to lọc
lấy phần nạc nhất ở 2 bên lườn của nó. Các món dùng cho ăn gỏi có nước chua,
rau thơm, hành. ớt,hoa chuối thái nhỏ, các loại lá chát. Ăn gỏi trở thành 1 thú
ăn của đàn ông và người ta sánh gỏi cá ngang với thịt chó: “Thèm thịt thì ăn
thịt chó, thèm cá thì ăn gỏi cá” (Xép
nhứa kin nhứa ma, Xép pa kin pa cỏi)

+Cá cũng được dùng để nấu canh, kho như nhiều dân tộc khác
+Người Thái rất thích ăn cá chua. Cá chua được làm từ cá con trộn với cơm lên men cho vào ống nứa để 1 số ngày. Khi ăn đổ ra đun thành canh.
Ở các vùng Thái ( Thanh Hoá, Nghệ An) trước kia món cá chua (pa xỏm) là một thứ không thể thiếu được
trong các đồ sính lễ của cả quý tộc và bình dân
Mắm là món ăn dự trữ,đồng thời cũng là món gia
giảm. Ở Sơn La đã nổi tiếng về các mónmắm cá của người Mường Chiến,mắm “đòng
đong”(mắm lý) của thị xã Sơn La. Người ta có thể để các loại mắm này hang năm.
Mắm để lâu thường ăn sống ngon hơn;măm mới làm thường phải chưng lên trước khi
ăn.Có thể ăn xôi chấm mắm cung các loại măng,rau ghém như:măng lay luộc,măng
loi sống,quả non và búp của cây vả,quả và lá cây sung…
- Khi kiếm được nhiều cá người ta sấy khô
để làm món ăn dần. Ở Tây Bắc ,cá sấy khô là 1 thứ đồ dẫn cưới ,là lễ vật quý để
thờ cúng tỏ tiên,biếu tặng bạn bè, người than.
Bên cạnh cá,thịt cũng là
món ăn được coi là quan trọng.Nguồn thức ăn thịt là do chăn nuôi gia đình cung
cấp,cũng có thể do săn bắn,đặt bẫy mà có được.
Trong các món ăn rất đặc trưng Thái còn phải kể đến món nặm pia. Nặm pia là nhủ tương trong ruột non của các loài động vật ăn cỏ có vị vừa bùi,vừa đắng. Món này có tác dụng kích thích dịch vị,dung để chấm lạp,chấm thịt luộc rất hợp.
Thịt nạc thái mỏng,để sống, ngâm vào nước măng chua cho tái rồi ăn thì gọi là xa,là món ăn của những người đàn ông. Thịt băm nhỏ rồi nhúng tái hoặc rang chín dậy mùi thơm,đỏ vào nước chua có các gia vị đã chuẩn bị sẵn để ănthì gọi là lạp chin,thường dành cho phụ nữ và trẻ em.
Trong các món ăn rất đặc trưng Thái còn phải kể đến món nặm pia. Nặm pia là nhủ tương trong ruột non của các loài động vật ăn cỏ có vị vừa bùi,vừa đắng. Món này có tác dụng kích thích dịch vị,dung để chấm lạp,chấm thịt luộc rất hợp.
Thịt nạc thái mỏng,để sống, ngâm vào nước măng chua cho tái rồi ăn thì gọi là xa,là món ăn của những người đàn ông. Thịt băm nhỏ rồi nhúng tái hoặc rang chín dậy mùi thơm,đỏ vào nước chua có các gia vị đã chuẩn bị sẵn để ănthì gọi là lạp chin,thường dành cho phụ nữ và trẻ em.
Món thứ hai cũng rất Thái là
món chéo. Thành phần không đổi của
chéo là muối và ơt giã,cùng tỏi,rau thơm,mùi,lá hành….có thể them gan gà luộc
chín,ruột cá,cá nướng…Có thể thêm các gia vị rồi giã nát để chấm
thịt,cá,rau,măng. Có nhiều loại chéo : Chéo ớt giã với muối gọi là chéo ượt cưa;nếu them tỏi để sống hoặc
tỏi nướng gọi là chéo hua hom;thêm
rau thơm,tỏi,cá nướng gọi là chéo pa.Mỗi
món chéo như vậy ăn với 1 laọi thức ăn phù hợp nào đó.
Nười Thái ưa thích ăn có các vị : Cay,chua,chát,đắng,bùi,ít dùng các món ngọt, lợ,đậm.nồng…hay uống rượu cần,cất rượu.
Nười Thái ưa thích ăn có các vị : Cay,chua,chát,đắng,bùi,ít dùng các món ngọt, lợ,đậm.nồng…hay uống rượu cần,cất rượu.
-Ngoài ra tục ăn trầu,hút thuốc lào cũng được
người Thái biết đến như là những tập quán quen thuộc của nhiều tộc người an
hem. Tuy vậy,ở Tây Bắc hiện nay tục ăn trầu hầu như đã gần mất hẳn,tục uống
rượu cần cũng không phổ biến và điển hình như ở miền Tây Thanh Hoá, Nghệ An.
Người Thái hút thuốc bằng điếu ống tre,nứa và châm bằng mảnh đóm tre ngâm,khô nỏ.
Người Thái trắng trước khi hút còn có lệ mời người xung quanh như trước khi ăn.
Người Thái hút thuốc bằng điếu ống tre,nứa và châm bằng mảnh đóm tre ngâm,khô nỏ.
Người Thái trắng trước khi hút còn có lệ mời người xung quanh như trước khi ăn.
3.
TRANG PH ỤC:
3.1. TRANG
PHỤC NỮ:
Y TRANG PHỤC PHỤ NỮ THÁI ĐEN:
1.Khăn
đội đầu (piêu):

“Em xe sợi thành vóc hoa dâu
Em
dệt cửi thành gấm vân chéo
Em dệt tơ thành đoá hoa vàng
Người
các bản các phường muốn khóc
Đều
ước ao được em thêu khăn”
(Dân
ca Thái)
Nếu chỉ trừ một bộ phận phụ nữ ngành Thái
Trắng đội nón tất thì đa số phụ nữ Thái Mường Thanh (Lai Châu),Mường La ( Sơn
La),Mường Lo( Hoàng Liên Sơn),Mai Châu ( Hoà Bình),Thanh Hoá,Nghệ An đều đội
khăn vải.Khăn vải dùng để đội trên đầu,người Thái gọi là “piêu”


“Piêu
có tác dụng che đầu khi đi nắng gió,làm ấm đầu khi mùa đông giá lạnh.
Không chỉ có vậy “piêu” còn là vật trang sức quan trọng của các cô gái
Thái trong sinh hoạt hàng ngày,nhất là trong lúc đi hơi hay trong lễ hội.
Xung quanh viền của “piêu” còn có các “cút piêu” được làm từ một mảnh vải đỏ rộng khoảng 1cm nên trong bọc
lõi chỉ rồi cuộn tròn lại.Tiếp đó cuộn vải tròn được khâu vắt thành 1 hình tròn
rồi quấn dây vải lại theo hình tròn ốc,”cút
piêu” sau đó được quấn thêm các loại chỉ màu thành hình các múi trong hình
tròn.
Các “cút piêu” sau khi làm xong được ghép rất khéo vào đầu piêu.Phụ nữ
Thái dùng các loại chỉ màu để ghép “cút” và “piêu”
Cácloại đường khâu đều do phụ nữ Thái tự sáng tạo ra,có nhiều kiểu: móc
xích,chân rết,xương cá …Các “cút piêu”
trước hết được đặt trên 3 đoạn thẳng của mỗi đầu khăn.Còn hính 4 góc khăn họ
dùng dây làm cút còn dư tết thành hình bông hoa cáhc điệu.
“Cút piêu” thường được sắp xếp thành từng chùm số lẻ (3,5,7 cái) trên
các vị trí cách đều nhau ở 2 đầu khăn. Bởi vậy,”cút” ở trên “piêu” bao giờ cũng
là “cút” chùm.Bình thường phụ nữ Thái
thường đội “piêu” có cút chùm ba.Nhưng khi tặng piêu cho người bậc
trên,người mình yêu thương ,quý trọng ,kính yêu .. thì tặng “piêu” có cút chùm
5 trở lên.
Sau
khi bọc viền và ghép “cút piêu” xong ,phụ nữ Thái bắt đầu công việc thêu
“piêu”.Trong quá trình thêu,họ có thể thêu theo ý muốn chủ quan của mình.Nét
đặc biệt là người phụ nữ Thái không thêu “piêu” ở mặt phải mà lại thêu mặt
trái,các hoa văn với đồ án và màu sắc lại hiện lên ở mặt phải. Đó là lối thêu
truyền thống với trí tưởng tượng ,kỹ thuật và mỹ thuật dân gian tài
tình.“Piêu” được thêu theo lối luồn chỉ
hay đan chỉ màu vào vải.
2,Trâm
cài tóc ( may khắt cẩu)
Phụ
nữ Thái để tóc dài nên phải búi.Tóc có thể búi ra sau gáy hoặc búi ngược lên
đỉnh đầu.Việc búi tóc không chỉ cho gọn ,tiện lợi trong sinh hoạt và lao động
mà còn cho đẹp. Đối với phụ nữ Thái ,việc búi tóc có khéo hay không sẽlàm tăng
hoặc giảm vẻ đẹp gương mặt của chính mình .Khi búi tóc ,phụ nữ Thái thường dùng
thêm tóc để độ và dùng trâm cài tóc.
Trâm
cài tóc của phụ nữ Thái là 1loại kim một đầu có mũi và một đầu nhọn.Trâm thường
được làm bằng bạc và ngà voi.Mũ trâm là 1 miếng bạc hình tròn có đường kính
trên 1cm
Các
cô gái khi chưa lấy chồng thường búi tóc sau gáy và sử dụng trâm của mẹ làm
cho. Đến khi lấy chồng,phụ nữ Thái búi
tóc ngược trên đỉnh đầu.Từ đó trở đi họ sử dụng trân cài của nhà chồng
tặng trong lễ “Tăng cẩu” (Búi tóc ngược) trong dịp cưới.
3.Hoa
tai(cóng hu)
Đa
số phụ nữ Thái đều đeo hoa tai.Khi chưa lấy chồng ,các cô gái Thái đeo hoa tau
bố mẹ đẻ cho,khi đi lấy chồng thì các cô lại đeo hoa tai của mẹ chồng tặng.
sự trnag điểm hoa tai là điều phổ biến đối
với các cô gái

Trong
bộ y phục phụ nữ Thái,nổi tiếng vàđậm đà màu sắc dân tộc là chiếc “xửa
cóm”,loại áo ngắn được các ngành Thái sử dụng hành ngày,với hàng cúc bướm (mák
pém).Hàng mák pém với số lẻ 11 chiếc được bố trí khéo léo,dày đặc,lóng lánh ánh bạc trước ngực
các cô gái như toả hào quang.
“xửa cóm” lcó hàng cúc bướm giữa ngực chủ
yếu phổ biến ở phụ nữ Thái vùng Tây Bắc. Đay là loại áo xẻ ngực,dài tay,khi mặc
áo ôm sát lấy thân người.
“Mák
pém” là những bộ cúc hình con bướm,ve sầu … đính ở 2 bên nẹp áo giữa ngực.Với
chất liệu kim loại,màu sáng nổi lên trên màu tối của chất liệu vải,hàng “mák
pém” nổi bật giữa chiếc xửa cóm tạo nên 1 hiệu quả thẩm mỹ,một sự chu ý.Một áo
ngắn trung bình có từu 11 – 13 bộ cúc bướm.Số bộ cúc bướm nhất thiết phải là số
lẻ.
Nhìn
lại toàn bộ xửa cóm nếu thoáng qua ta thấy rất giản dị,song nếu quan sát kĩ ta
lại thấy không đơn giản. Đó là sự gia công đúng mực về kỹ thuật và nghệ thuật.
Điều đó làm choi xửa cỏm Thái nổi bật bởi sự hài hoà giữa cái che và cái phô
ra,giữa cái giản dị mà không kém phần lộng lẫy.
5.Vòng
cổ (pók co)
Nếu
như đối với một số dân tôc như : H Mông,Dao vòng cổ nhất thiết phải có trong
trang sức của mọi người thì ở đồng bào Thái không hoàn toàn như vậy.Trước dây
trong các bản,mường của người Thái phần lớn cư dân đều có vòng cổ tuy nhiên
vòng cổ đắt hơn hoa tai nên hiện nay vòng cổ thường thấy đeo ở các em gái,trai
nhỏ tuổi làm bùa hộ mệnh
6.Vòng
tay (pók khẻn)
Vòng tay là vật trang sức được phụ nữ Thái ưa dùng
Là
những vòng tròn khép kín hoặc co khoá làm bằng bạc đeo ở cổ tay phụ nữ
Vòng
tay bao giờ cũng được đeo từng đôi.Nghĩa là hai tay phụ nữ Thái đều đeo vòng.
Ít nhất mỗi tay một chiếc, được trang trí chạm khắc hoa văn ,có loại để trơn.
Vòng
tay bạc lấp lánh ở 2 cổ tay người phụ nữ Thái làm sinh động vẻ đẹp làm tăng
thêm sự duyen dáng của họ.Vòng tay nằm ở cổ tay tức là điểm cuối của ống tay áo
và đầu bàn tay với chất liệu bạc có giá trị như1 điểm chốt của toàn bộ bố cục
của chất liệu kim loại trong mối quan hệ với chất liệu vải và màu da.
Vòng
tay còn là vật “bảo mệnh” của người Thái. Đồng bào quan niệm vòng tay cũng như
vòng cổ,với chất liệu bạc có thể “đánh giá” trừ độc hại.Một số vùng Thái , đồng
bào còn cho con cái đeo vòng bằng vàng hoặc vàng giả để trừ tà ma.
Trâm

Hoa tai Hoa tai
![]() |
|||
![]() ![]() |
|||
![]() |
vòng tay vòng tay

7.Thắt
lưng(xài ẻo)
Là
một dải băng vải có chức năng giữ cho cạp váy quấn chặt ở cơ thể người mặc váy.
thắt lưng truyền thống của phụ nữ Thái
thường làm bằng vải tơ tằm óng ả.Ngoài thắt lưng dệt bằng tơ tằm,người Thái còn
phổ biến dùng loại thắt lưng dệt bằng sợi bông.Thắt lưng dệt băng sợi bông
thường đem nhuộm rồi mới dùng.Thắt lưng thường được nhuộm màu xanh lá cây .Các
cô gái còn gia công thêm 2đầu thắt lưng miếng vải màu cho đẹp.Các cô còn thêu
xung quanh miếng vải ghép ở 2 đầu khăn.
8.Xà tích
Xà tích là dây bạc phụ nữ Thái dùng để đeo
chìa khóa và những đồ nữ trang nhỏ khác. Một bộ xà tích gồm: Dây đeo chìa khóa
bằng bạc, một hộp đựng kim bằng bạc, túi vải đựng tiền (ghép bằng vải nhiều
màu), dao nhíp, bấm móng tay.
Xà tích được gài vào thắt lưng, buông xuống
một bên hông. Trên nền chàm của váy, xà tích bạc óng ánh đung đưa theo nhịp
chân bước tạo nên một vẻ đẹp vừa diêm dúa vừa sang trọng. Trong những ngày
thường các cô gái ít đeo xà tích. Họ chỉ đeo trong những dịp hội hè, lễ tết,
cưới xin…Nhưng với phụ nữ có chồng, vai trò tay hòm chìa khóa nặng hơn con gái
nên lúc nào xà tích cũng luôn luôn bên
mình.
Trong quan niệm truyền thống, xà tích được
gắn thêm hộp kim không phải là vô thức. Hôp kim gồm 9 cái đeo vào dây bạc được
xem như là vật chủ yếu để trừ tà ma. Có hộp kim trong chùm xà tích phụ nữ Thái
yên tâm không sợ bị làm hại, quấy rầy bản thân và làm hại con cái. Trong những
đồ vật chính đeo vào dây xà tích có thể
có thứ này thứ khác nhưng hộp kim thì khônh thể thiếu được. Vì lẽ đó mà ý nghĩa
của xà tích vượt ra ngoài giá trị trang điểm bởi nó còn thể hiện một tín ngưỡng
dân gian của dân tộc Thái.
9.Váy(xỉn
ông):
Váy
được tạo thành bởi 4 mảnh vải khổ 40cm,dài trên dưới 90 cm,khâu khép kín lại
theo chiều dài.cạp váy được can từ miếng vải khac từ than váy.
Cạp
váy thường được làm bằng vải màu trắng hoặc đỏ.khi nôíi vào than váy ,cạp váy
có chiều cao khoảng 10cm. người Thái gọi cạp váy là “đầu váy” (hua xỉn).Tên gọi đó nói lên sự quy định
khi sử dụng váy. Đầu váy luôn ở phía trên để phân biệt với chân váy phía dưới.
Phía dưới chân váy được phụ nữ Thái viền hoặc dáp them miếng vải khác màu vừa
cho cứng vừa tạo nên một giá trị thẩm mỹ riêng.
Y TRANG PHỤC
PHỤ NỮ THÁI ĐEN:


Nói chung trang phục phụ nữ Thái Trắng cũng
có những nét giống nhau về : hoa tai, vòng cổ, vòng tay, thắt lưng, xà tích,
váy. Tuy nhiên, trang phục phụ nữ Thái Trắng có một số nét khác biệt so với
trang phục của phụ nữ Thái Đen, đó là:
- Phụ nữ Thái Trắng không đội khăn piêu.
Trong đó có một bộ phận phụ nữ Thái không
đội “piêu” mà đội nón. Đó là phụ nữ Thái Trắng Lai Châu và một số vùng Thái
Đen. người Thái gọi loại nón đan lợp lá bằng nón tát.Bên trong nón có vách để
đội đầu.Loại nón này gần giống với chiếc nón thúng của người Kinh mà người ta
còn thấy ở liền anh,liền chị quan họ
Dân
ca Thái có câu :
“Nón
Kinh chưa nên vành
Nón
tát chưabuộc quai
Anh
chàng trai trơn xin đến tìm vợ”
Các
cô gái Thái Trắng đội nón này trông thanh thoát.Nón không che kín mặt mà nở xoè
ra như bông hoa tên đầu tôn thêm khuôn mặt đẹp xinh của các cô gái Thái.Nón
không chỉ che sương,gió ,nắng ,mưa mà còn là đạo cụ trong điệu xoè nổi tiếng
trong và ngoài nước của đồng bào Thái
Đồng bào Thái Đen (Sơn La) ngoài đội piêu
ra cỏn đội cúp làm bằng cật nứa.Loại nón này chóp nhọn,giống nón lá của người
Kinh ở đồng bằng song nặng hơn gấp nhiều lần.
- Phụ nữ Thái Trắng không dùng trâm cài tóc
mà họ buộc tóc phía sau. Và họ cũng không có tục “Tằng cẩu” như người Thái Đen.
- Áo của phụ nữ Thái Trắng tương đối giống áo
của phụ nữ Thái Đen nhưng có một nét khác biệt là ở cổ áo không phải là cổ cao
mà là cổ áo hình thìa,hình chữ V.
Và màu áo thường là màu sáng, màu được dùng
nhiều nhất là màu trắng.
3.2.TRANG
PHỤC NAM :
Có một nét chung trong trang phục của nhiều
thành phần dân tộc ở nước ta cũng như nhiều cư dân trên thế giới là trang phục
nam bao giờ cũng giản gị hơn trang phục nữ và trang phục của nam giới Thái cũng
vậy.
Trang phục nam giới Thái chủ yếu gồm: khăn,
áo, quần
1.Khăn:
Khăn của nam giới không công phu, không đẹp
như khăn “piêu” của phụ nữ mà đó chỉ là một miếng vải màu chàm đen.
Khăn của nam giới thường có hai loại: một gọi là “khằn pau” dài >1m; một loại gọi là “ khằn trọc” dài gần 1m. Đàn ông thường quấn khăn trên đầu khi lao
động hoặc trong sinh hoạt.
“Khằn pau” được quấn trên đầu khi đi xa,
hoặc dùng trong các ngày hội hè, lễ tết.
“Khằn
trọc” sử dụng khi đi làm ruộng, nương, trong lao động hàng ngày.
Cũng như khăn “piêu” của nữ, hai loại khăn của nam giới có tác dụng như chiếc mũ.
“khằn” giúp con người bảo vệ cái đầu, che nắng, tránh rét.
“Khằn trọc” được quấn đơn giản
trên đầu theo lối chữ nhân. Cách vấn này tiện, nhanh.
“Khằn pau’’ là loại khăn được
sử dụng trong những ngày lễ tết nên được vấn cẩn thận, trang trọng hơn. “Khằn pau” được vấn theo kiểu khăn xếp
của người Kinh, tức là quấn nhiều vòng tạo thành các lớp xếp lên nhau.
Chỉ khi trưởng thành, 13-14 tuổi thanh niên
nam người Thái mới bắt đầu dùng khăn. Nhìn chung ở tuổi trẻ nam giới Thái ưa
dùng khăn màu chàm biếc, còn các cụ ông hay dùng khăn màu chàm đen.
2.Aó:
Aó của nam giới đơn giản về cấu tạo và
trang trí so với áo của nữ giới. Aó của đàn ông dân tộc Thái được cắt may theo
kiểu xẻ ngực, cổ tròn, không cầu vai, 2 túi dưới…đây là loại áo cánh mặc thông
dụng. Loại áo này cũng góp phần quan trọng tạo nên đặc điểm giới tính của trang
phục nam.
Aó nam giản gị, ít trang trí so với áo nữ.
ít ai nhìn thấy đôi “mák may” lấp ló
ở chỗ gián tiếp được xẻ tà và đường giáp hông áo. Đó là nơi được trang trí duy
nhất trên áo nam giới. “Mák may” được
quấn bằng chỉ màu, không có lõi bên trong. Đó là các loại chỉ xanh, đỏ, vàng…trong
đó màu đỏ được dùng với tỉ lệ lớn hơn màu khác. Chỗ xẻ tà của áo nam được người
Thái liên tưởng đến sự sinh sôi, nảy nở. Đồng bào quan niệm chỗ xẻ tà áo giống
như chỗ chia đôi trên thân cây, từ “mák” ở đây biểu thị cho sự nảy mầm, phát
triển vươn lên.
3.Quần
Nếu váy (xỉn) là biểu hiện rõ nét giới tính
của trang phục nữ thì đối với nam giới biểu hiện là quần.
Quần là một kết cấu gồm 2 ống vải tách ra ở
phần dưới và chung nhau ở phần trên.
Về hình dáng nhìn chung quần nam giới Thái
không khác quần bà ba của người Kinh. Cái khác là ở chỗ cắt may nó. Nếu quần
của người Kinh trước đây thường cắt đũng chéo (đũng chân què) thì người Thái
lại xẻ đũng giữa.
Quần nam giới dân tộc Thái không rộng như
quần nam Hmông mà mặc vừa người. Giống như áo vừa dùng màu chàm vừa dùng các
loại vải kẻ khác nhiều màu thì quần cơ bản là màu chàm.
3.3.
Y PHỤC TRẺ EM:
Khi sinh con đầu lòng, giống như người Kinh, bà mẹ Thái đi xin quần áo
cũ của các gia đình đông con trai và con
gái để lấy phước cầu mong con cháu của gia đình mình cũng như vậy.
Khi mới sinh, trẻ được bọc trong những mảnh vải bông màu chàm, gọi là
hả trán. Trẻ em từ 3-4 tuổi trở đi được may quần áo, khăn, mũ tuỳ theo giới
tính.
Trẻ trai mặc áo ngắn, quần ngắn và dài buộc dây rút, thắt lưng vải, đội
mũ ghép bằng các mảnh vải màu gọi là muk lếch nọi (mũ trẻ nhỏ).
Trẻ em gái mặc áo,váy,thắt lưng, tới 9-10 tuổi bắt đầu đội khăn piêu
như người lớn. Trẻ em cũng đeo vòng cổ, vòng tay, chân ngoài cho đẹp còn có tác
dụng giữu vía, trừ ma tà làm hại. Trẻ em khoảng 5-6 tuổi đục lỗ tai để sau này
đeo vòng.
Trẻ nhỏ còn đeo bên mình túi tổ
cẩm nhỏ, trong đó đựng đồ chơi.
3.4.
TANG PHỤC:
Y phục chính trong tang lễ của người Thái là chiếc áo xửa co lòng, may
bằng vải màu trắng, kiểu xẻ ngực, dài quá gối nẹp áo không có khuy cài mà dùng
dây buộc, gấu áo xổ, gấu tay đáp vải màu xanh, đỏ. Loại áo này dành cho con
trai, con dâu của người đã quá cố.
Người chết sau khi được tắm rửa sạch sẽ,mặc áo xửa cỏm (nếu là nữ) vào
trong, rồi đến xửa chái và ngoài cùng là xửa luổng.
Trong thời gian tang lễ, vợ, con dâu trưởng, con gái cả của người quá
cố mặc “xửa luổng”, con dâu thứ và con gái thứ mặc xửa cò lòng, họ hàng và
những người thân thích mặc xửa cỏm màu trắng. Sau khi mai táng xong, ra về, con
gái cả, con dâu cả cởi bỏ xửa luổng treo trên cột nhà mồ để lại cho người chết
rồi mặc xửa cò lòng ra về. Sau đám tang, những người để tang mặc xửa cỏm màu
trắng, chỉ khác là hàng khuy bạc đơm ở mặt trái.
Các nhóm Thái
|
Phong cách trang trí
|
Địa phương
|
Nhóm Thái Trắng
(Táy Khao)
|
- “Piêu” không hoa văn
(chỉ là dải vải màu chàm )
|
Mường Tấc (Phú Yên), Mường
Xang (Mộc Châu) … tỉnh Sơn La
|
Nhóm Thái Đen
(Táy Đăm)
|
- Hoa văn trang trí
thoáng, nhã nhặn. Đồ án trang trí có trung tâm.
Hoa văn thực vật + hình
học
- Mật độ đồ án trang trí vừa phải,có trung
tâm đồ án (chiếm diện tích chủ yếu)
Hoa văn động thực vật +
hình học
- Đồ án hoa văn trang trí
đậm đặc,có trung tâm của bố cục đồ án.
Hoa văn chủ yếu là hình
học.
|
- Điện Biên – Lai Châu
- Huyện Thuận Châu và
quanh thị xã Sơn La
- Huyện Yên Châu tỉnh
|
Nhóm Thái
Thanh Hoá-Nghệ An-Hà Tĩnh
|
- Mật độ đồ án trang trí rất đậm đặc
Bố cục dải băng ngang. Có
nhiều trung tâm ở án trang trí.
Hoa văn động vật + hình
học
- “Piêu” không chỉ trang
trí ở 2 đầu mà toàn bộ diện tích khăn (theo lối dệt hoa văn)
|
- Huyện Thường Xuân – Thanh Hoá
- Nghệ An – Hà Tĩnh
|
3.5.Y PHỤC THÀY CÚNG
Trong các bản mường Thái có một số người hành nghề cúng, bói và cúng
giải các loại “phi” (ma) làm hại cho người. Đó là các thày Mo, bà Một, các ông
bà Then …
Thày mo hành lễ trong các dịp cúng Xên Mường, Xên Bản. Mặc áo thụng
rộng, may kiểu chui đầu, màu vải đỏ, gấu áo phủ quá gối, có ghépp những mảnh
vải hình tam giác, gần giống với áo Xửa luổng của người Thái Đen, đầu đội mũ
bằng vải khít có tua rủ xuống vai, có khi trên mũ có dán thêm hình các con vật
như :bò. rắn, rết, sâu … Các cụ già kể lại rằng, xưa các thủ lĩnh Thái đi chinh
chiến cũng thường mặc loại áo thụng này.
Trong các nghi lễ cúng ma nhà (phi hướn),
thày mo mặc áo màu đen xửa vạt lẳn, quấn khăn dài thành nhiều lớp trên đầu. Các
bà Một khi cúng mặc áo dài xửa chái, thắt lưng màu trắng có trang trí hình các
con vật, đầu đội khăn hình chóp, hai dải khăn để xoã phía sau lưng.
4.NHÀ
CỬA:


Do nằm trong hệ
sinh thái của rừng mưa nhiệt đới,độ ẩm cao,mưa nhiều,côn trùng, thú dữ lắm,các
cư dân của khu vực Đông Nam Á trước đây chủ yếu là ở nhà sàn. Do vậy, nhà sàn
trở thành mô típ của Đông Nam Á. Cho đến hiện nay ở các vùng nông thôn của các
nước này ngôi nhà sàn vẫn hiện diện ở nhièu nơi như là 1 đặc trưng của văn hoá
phương Nam .
Nhà sàn Thái là lâu đài gỗ, tre, nứa,
lá…Mọi nguyên liệu làm nhà đều là sản phẩm của địa phương.
Đối với bất kì dân tộc nào việc lựa chọn
địa điểm phải thỏa mãn các yêu cầu: thuận tiện cho sản xuất, gần nguồn nước. Ở
người Thái địa điểm làm nhà thường là chân đồi, nơi gần ruộng, nương tiện cho
sản xuất, gần các thung lũng có nước chảy. Địa thế nhà thường thấp hơn nguồn
nước để có thể bắc máng nước chảy về gần nhà.
Trông quá trình dựng là nhà thì người Thái
chú trọng đến việc chọn và dựng cột cái “xau hẹ’’. Xau hẹ được dựng trước nhà,
là sức mạnh, là linh hồn, là điểm tựa bên ngoài của gia đình.
Nhà sàn Thái có 4 mái: 2 mái to chạy dọc
theo chiều dài của nhà, 2 mái nhỏ che 2 mái nhà. Các vùng khác nhau thì có sự
khác nhau ở 2 mái nhỏ: ở vùng Sơn La 2 mái nhỏ chủ yếu có hình cánh quạt cong;
còn ở Lai Châu, ngoài loại trên còn thêm loại hình cánh quạt phẳng.
Nhà sàn truyền thống là loại nhà sàn có 2
mái phẳng hình chữ nhật, 2 mái nhỏ cong hình cánh quạt úp che 2 phía đầu hồi.
Trông toàn bộ mái nhà từ bên ngoài có hình dáng giống mai con rùa hoặc một
chiếc thuyền úp. Bên trong mái nhà rất thoáng, cao vì trong nhà hoàn toàn không
có cột. Một khoảng không gian rộng, lại được bếp lửa sưởi ấm suốt ngày cho nên
trong nhà giữ được khong khí ấm áp, thơm mùi khói bếp khác hẳn với môi trường
bên ngoài. Nhà sàn đẹp một phần quan trọng thể hiện ở các mái.
Trên mái nhà sàn Thái ở hai đầu hồi khau
cút vút cao được ghi nhận như là một đặc
trưng đậm đà màu sắc dân tộc. Tác dụng trực tiếp của “khau cút” là nó đóng vai trò làm cái nẹp giữ cho lớp chanh ở hai
đầu hồi khỏi bị tốc lên khi có mưa to gió lớn. Song bên cạnh đó khau cút còn
mang nội dung thẩm mỹ dân tộc rõ rệt.
Khau cút dược làm từ hai miếng gỗ. Màu tự
nhiên của gỗ thường là màu ngả lõi, còn khau cút lúc nào cũng có màu
trắng.Trước đây quét vôi trắng còn ngày nay quét sơn trắng.




4.1. NHÀ SÀN:
Là nhà sàn nên nhà người Thái cũng có
3 mặt bằng chồng lên nhau như nhà sàn Tày,Nùng hay Mường :
“Tê đa” hay còn gọi là “ thản hạnh”(trần
nhà)
“Hạn cang” hay còn gọi là “chuông
cang”(sàn nhà)
“Pựn lang”(nền nhà) Bên cạnh nhà
thường trồng 1 khóm chuối hay khóm mía tượng trưng cho yếu tố nén-sức sống vươn
thẳng từ mặt đất,còn mặt đất là yếu tố minh. Minh, nén là 1 khái niệm trừu
tượng được cụ thể hoánhư 1 điểm tựa của “hồn” là nền móng của sự sống trong tâm
thức của người Thái,bắt nguồn từ đất mẹ.
+Nhần có 2 cửa đi lại. Hai cửa được mở ở chính giữa 2 đầu hồi,2 cửa đi
lại này có 2 tên gọi khác nhau: Cửa “chán” và cửa “quản”. Cửa “chán” là cửa mở
từ trong nhà ra phía “chán”,”cửa quản” là cửa mở ra phía “ qủan”. Thường thường
cửa “ chán” nhìn về phía nào thì đó là hướng của ngôi nhà.
Hai cửa “quản” và “ chán” đối diện nhau qua giữa nhà,phân chia bên nhà ra làm 2 nửa bằng nhau: Nửa trên và nưa dưới.Phía Bắc cầu thang lên là nửa dưới,nửa còn lại là nưa trên.Nửa trên và nửa dưới hoàn toàn không có gì ngăn cách,đường ranh giới chỉ là sự ứoc lệ nhưng đối với đòng bào thì rất rõ rang. Ranh giới ở đây là đường thẳng tượng trưng nối giữa 2 cửa đi lại.
Hai cửa “quản” và “ chán” đối diện nhau qua giữa nhà,phân chia bên nhà ra làm 2 nửa bằng nhau: Nửa trên và nưa dưới.Phía Bắc cầu thang lên là nửa dưới,nửa còn lại là nưa trên.Nửa trên và nửa dưới hoàn toàn không có gì ngăn cách,đường ranh giới chỉ là sự ứoc lệ nhưng đối với đòng bào thì rất rõ rang. Ranh giới ở đây là đường thẳng tượng trưng nối giữa 2 cửa đi lại.
Theo phong tục đồng bào Thái,nửa trên của
nhà dành làm chỗ thờvà chỗ ngủ của mọi thành viên trong gia đình.Khách không
bao giờ được đi lại qua nửa này.Tính từ bên cưa “quản” vào,gian thứ nhất là “hoỏng coóng”-gian thờ.Gian này có “xau hoóng”-nơi trú ngụ của tổ tiên .”phi hướn” – ma nhà,cho nên đồng bào dành
gian này để thờ.Gian này thường trống trải,không có đồ đạc,ít khi quét dọn,bụi
bặm bámnhiều làm tăng thêm vẻ hiu quạnh,lạnh lẽo-không gian đó gợi cho ta ấn
tượng của 1 thế giới hư vô.Khi có việc ,ông chủ nhà hoặc năm giới trong nhà có
thể đến gian này.Khách tuyệt nhiên không được đến.
Theo phong tục đồng bào Thái,nửa trên của
nhà dành làm chỗ thờvà chỗ ngủ của mọi thành viên trong gia đình.Khách không
bao giờ được đi lại qua nửa này.Tính từ bên cưa “quản” vào,gian thứ nhất là
“hoỏng coóng”-gian thờ.Gian này có “xau hoóng”-nơi trú ngụ của tổ tiên .”phi
hướn” – ma nhà,cho nên đồng bào dành gian này để thờ.Gian này thường trống
trải,không có đồ đạc,ít khi quét dọn,bụi bặm bámnhiều làm tăng thêm vẻ hiu
quạnh,lạnh lẽo-không gian đó gợi cho ta ấn tượng của 1 thế giới hư vô.Khi có
việc ,ông chủ nhà hoặc năm giới trong nhà có thể đến gian này.Khách tuyệt nhiên
không được đến.
- Đi từ phía “chán” vào nhà,gian đầu tiên là
gian bếp. Hàng ngày,bếp này dành cho việc nấu cám lợn,khi trong nhà có việc
cưới xin,lễ tết… cần nấu nướng nhiếu người ta cũng dùng bếp này.Trong trường
hợp nhà có người sinh con nhỏ thì người mẹ phải nằm cạnh bếp sưởi khoảng 5 ngày
đêm lien tục.
+Bếp
nữa bếp thứ 2 thường được đặt ở gian giáp với gian ngủ của chủ nhà – gian có
“xau hẹ”(cột cái).Đây là bếp dùng để đồ cơm nếp và nấu nướng thức ăn hàng
ngày,và người chủ nhà cũng tiếp khách ở quanh bếp này.Bếp và quanh bếp là điểm
hội tụ của sinh hoạt văn hoá gia đình.

Giữa 2 bếp có 1 khoảng không gian rộng dành cho sinh hoạt ăn uống trong gia đình.
Trong ngôi nhà còn có khoảng sàn trống từ bếp giữa nhà đến vách đầu bên “quản”.Thông thường nơi sát bếp là nơi tiếp khách.Ở đây thường đặt bộ ấm chén uống nước và ống điếu cày cổ truyền.
Mặt sàn khác găn liền với nhà sàn trong nhà,nằm dưới mái nhà nhưng lại ở bên ngoài cửa phía “quản” gọi là “tang quản”.Chức năng của “táng quản” là chỗ ngủ của rể “quản”,là rể mới được nhận đến ở.Thời gian đầu này,rể phải nằm ngủ riêng 1 mình ở ngoài “quản”.
Mặt bằng sinh hoạt khác gắn liền với mặt nhà sàn nhưng ở ngoài nhà và
hoàn toàn nằm dưới mái nhà,gọi là “túng chán”,là để phơi phóng lương thực và
quần áo.Ngoài ra,1số công cụ lao động như cuốc cũng được móc vào lan can,để cái
bung,ống mương gánh nước.
Ở trên “tang chánh” bên mép lan can,đồng bào hay dùng than cây gỗ to đục rỗng than,cho đất vào làm nơi trồng hành hoa,tỏi ớt,thì là …
Diện tích mặt bằng dưới gầm nhà sàn ở được đồng bào tận dụng làm nơi để công cụ sản xuất (cày,bừa…),chuồng gà,chuồng ngựa
Ở trên “tang chánh” bên mép lan can,đồng bào hay dùng than cây gỗ to đục rỗng than,cho đất vào làm nơi trồng hành hoa,tỏi ớt,thì là …
Diện tích mặt bằng dưới gầm nhà sàn ở được đồng bào tận dụng làm nơi để công cụ sản xuất (cày,bừa…),chuồng gà,chuồng ngựa

1. Gian để đồ dùng sinh hoạt 5. Gian
tiếp khách
2-3. Gian ngủ a.
Bếp chán : Nấu và tiếp khách nữ
Gian
thờ b.
Bếp quản: Nấu và tiếp khách nam

* Mặt bằng sinh hoạt nhà sàn Thái Đen:
Phần nhà có các
gian chính gọi là Hỏng tô,gian chái là hỏng tụp,chái phụ là hỏng tịp
Những
gian nằm trong phạm vi hỏng tô lại có
tên riêng : Lấy cột “xau hẹ” làm mốc ranh giới,về phía tay phải gọi là Táng
quản. Phần này lại được chia theo gian: hỏng hóng,hỏng quán.Gian chính giữa gọi
là cang hướn.Phần nhà về phía tay trái của cang hướn là tang chan.Táng chan lại
được chia thành Hỏng lánh ngái,hỏng chan và chan. Chan lại được chia thành :
Chan vuông và chan no.
Nhà còn được chia
theo chiều dọc,đường ranh giới qua bếp khách.Từ bếp này trở về phía sau là hỏng
non,về phía trước là mang tẩu.
1. Mặt bằng sinh hoạt nhà
sàn của ngưới Thái Đen ở huyện Mường La,Sơn La:
Nhà theo kiểu phăng đinh – khứ tháng,mái
hình mai rùa lợp băng cỏ tranh,hai hcỏm đầu dốc có “khau cút”,xung quanh nhà
che vách nứa.Có 2 cưa chính (CL1,CL2) ở 2 đầu hồi,mặt trước và sau nhà có nhiều
cưa sổ (CS),có 2 thang ở 2 đầu hồi(T 1,T2).Qua thang chính (T1) lên gian quản
(GQ),gian này để trống.Từ gain này qua cửa chính (CL1) vào gian hỏng quản
(HQ),Phần sau của gian này có 1 phòng nhỏ dành cho người ở rể,nếu chưa có người
ở rể thì để cho con trai (PR),về phía trước là giường khách (GK) và có bàn ghế
tiếp khách (BK).Tiếp là gian hỏng hóng (HH),phần sau là của vợ chồng chủ nhà
(GC) ở đây có bàn thờ tổ tiên (TT).Gian này có bếp khách (BK).Mặt trước về bên
trái có ột xau hẹ (XH).Trên cột này ngườita treo 1 gói ạt giống,1 mai rùa và 1
dương vật đẽo bằng gỗ.Đó là hết phần táng quản.
Tiếp gian hỏng hóng là gian cang hướn
(CH),phần sau dành cho con gái (CG),phía trước để trống.Kề gian này về phía bên
trái là phần tang chan (TC).Gian đầu của táng chan là hỏng lánh ngái (HLN),về
phía sau dành chovợ chồng con gái (GR),phía trước là bếp (BC).Giam kế là hỏng
chan (HC) để lương thực,chai lọ ….chủ yếu là nơi đẻ phụ nữ trang điểm (TĐ).Tiếp
là chan,phần ưới mái là chan cuông(CC) nơi dành cho công việc của nữ giới (
khâu vá,thêu thàu,đan lát) và cũng là nơi để nước (ĐN) sinh hoạt.Phần lộ thiên
là chan no (CN)để ngồi hóng mát và phơi phóng (SP).Thang phụ T2 đặt ở chan chủ
yếu để cho nữ giới qua lại.

-Mặt bằng sinh hoạt nhà sàn Thái Đen ở
huyện Con Cuông,Nghệ An:

*Mặt bằng sinh hoạt nhà sàn Thái Trắng
+Mặt bằng sinh hoạt nhà sàn Thái Trăng ở
huyện Mường Lay, Lai Châu:
Nhà làm theo kiểu phăng đinh – khứ tháng ,mái
lợp tranh,4 góc mái vuông,không có khau cút,xung quanh nhà che bằng vách nứa
Mặt bằng sinh hoạt chia ra làm 3 phần theo
chiều dọc nhà:
Thang chính (T1) đặt ở đầu hồi thuộc về hành lang phía sau.Qua thang lên
thẳng phòng tiếp khách (PK).Liền với phòng khách về bên trái là nơi dành cho
con gái (CG),cạnh đó có bàn ăn (BĂ),tiếp là bếp (BC,BP).Cạnh bếp,giáp váchngăn
với sàn phía noài là nơi để chai lọ… Ngoài cùng là sàn đêr nước (SN),sàn này có
thang phụ (T2) dành cho nữ giới qua lại.
Hành lang ở giữa,trước mơi dành cho vợ chồng chủ nhà có bếp
khách(BK),tiếp là sa quay sợi và khung cửi(SS, KC).Hnàh lang phía trước,đầu hồi
có 1 phòng nhỏ dành cho khách (PK),tiếp là 1 ô nhỏ trong đặt bàn thờ tổ tiên
(TT),tiếp là nơi dành cho vợ chồng chủ nhà (GC,vợ chồng con chủ nhà (GT) và con
gái chủ nhà (GG).

4.2. NHÀ ĐẤT
-
Bộ khung của ngôi nhà đất được làm theo kiểu vì kèo suốt – 4 hàng cột,kết
cất kèo – cột – xà với kkkĩ thuật mộng
có mang thắt. Nhà 6 gian lại thêm 2 gian phụ ở 2 đầu hồi.Mái lợp tranh,xung
quanh nhà bưng bằng ván mỏng.Đằng trước có hiên rộng (H).Trước nhà có 1sân phơi
(SP) cao khoảng 1m và 1 mảnh vườn nhỏ.
Cách bố trí trên mặt bằng sinh hoạt như sau:
Gian hồi bên phải có bếp (BC),1giường cá nhân (GM) và 1 chạn bát (CB).Gian thứ
2 và thứ 3 thuộc về nửa nhà sau là 1 sạp cao cách mặt đất khoảng 70 cm dành cho
vợ hai (GV2)và con gái nhỏ,về phía trước có 1 bàn học sinh (BH),Hai gian này có
vách ngăn với gian bên cạnh.Gian thứ 4 cũng có sạp như gian thứ 3 dành hco chủ
nhà và vợ cả (GV1),về phía trước có bếp phụ (BP) dùng về mùa đông.Gian thứ 5 có
1 tủ áo (TA),1 bộ bàn ghế tiếp khách (BK) (trước đây gian này có vách ngăn với
gian thứ 6 nhưng nay đã bỏ đi ).Gian thứ 6 và thứ 7 có 2 giường đôi kê sát nhau
dành cho khách (GK1,GK2).Bên cạnh giường khách treo trên đó là bàn thờ tổ tiên
(TT).Ở góc nhf về phía trước còn có 1 cót thóc (CT).Gian thứ 8 cũng tức là gian
hồi bên trái để trống.
-Kiểu nhà đất thuộc xã Chiêng Xôm
Nhà 3 gian xây gạch lợp ngói,nửa nhà phía
trước có trần.Bên cạnh nhà này còn có 2 nhà sàn,1 là nhà bếp, 1 là nhà của
người con trai thứ 4.
Mặt
bằng sinh hoạt được bố trí như sau : Nhà được chia thành 2 phần theo chiều dọc:
Phần nhà phía trước,3 gian để thong nhau.Gian thứ nhất có giường khách (GK) và
1 bộ bàn ghế tiếp khách (BK).Gian giữa để trống,gian thứ 3 có bàn học sinh,1
giường cá nhân của cháu trai (GCT)
Phần
nhà phía sau,các gian đều có tường ngăn,chia thành 3 phòng,Phòng thứ 1 của cợ
chồng chủ nhà (PC),bên trong có 1 giường đôi,1 tủ áo (TA) và 1 hòm gỗ
(HG).Phòng hứ 2 của cháu trai (PCT) ,có 1 giường cá nhân,1 xe đạp (XĐ),1 cót
thóc (CT) và 1 hòm gỗ (HG).Phòng thứ 3 của vợ chồng con trai trưởng
(PT),có 1 giường đôi,1 tủ áo(TA) và 1
hòm gỗ (HG)

5.
KIẾN TRÚC TRANG TRÍ
Người
Thái Đen ở nhà sàn mái vòm, cong, khum mai rùa (có bình đồ hình bầu dục).
Người
Thái Trắng ở nhà sàn mái phẳng (có bình đồ hình chữ nhật).

Khau
cút có hai bộ phận: Bộ phận bên dưới gắn chặt vào đầu hồi của nóc nhà, chìm
trong khối hình của vòm mái. Bộ phận phía trên nhô cao và được trang trí rất
đẹp. Bộ phân trang trí phía trên dường như còn tính chất thể hiện thân
phận củ chủ ngôi nhà cho nên được người
Thái chia làm hai loại hình:
1.
Khau
cút bẻ (khau cút sừng dê): Gồm 2 nhánh chính thể hiện ngôi nhà của người đơn côi, góa bụa nên còn
được gọi là “khau cút mải).
2.
Khau
cút chùm(chùm=chêm thêm): Chêm các nhánh còn thêm vào hai nhánh chính, thể hiện
ngôi nhà của những người đông con, giàu nhân lực, vật lực, tài lực và quyền
lực.


Tùy theo tính chất giai cấp, truyền thống
của từng vùng và sự khéo léo củ nghệ thuật dân gian, khau cút Thái Đen rất
phong phú, đa dạng.

Một bên vách của nhà sàn dựa theo triền
núi, còn một bên vách có mở nhiều ô cửa sổ trông ra thung lũng có đồng ruộng
bậc thang, men theo con suối lượn trôi, lấp lóa trời xanh, mây trắng soi mình
trên mặt nước.
Những ô cửa sổ nhà sàn Thái Đen thường được
làm bằng gỗ và có trang trí điêu khắc. Dù nhà nghèo đến mấy, người Thái Đen
cũng trạm trổ, trang trí ô cửa sổ ở gian tiếp khách, vừa thể hiện tập quán
trọng khách vừa như biểu hiện vị thế của chủ nhân ngôi nhà trong cộng đồng xã
hội. Sự biểu trưng của bộ phận trang trí ô cửa sổ cũng xứng hợp với sự biểu
trưng trang trí trên bộ phận khau cút ở nóc nhà. Đó là sự thống nhất cả trong
nội dung và hình thức trang trí điêu khắc phục vụ cho kiến trúc Thái Đen. Bộ
phận trấn song dưới có chiều cao đến ngang tầm vai, khi người ngồi trên sàn tựa
lưng, tựa vai vào cửa sổ nên có tên là cửa sổ tựa-“táng cơi”.



Người ta thể hiện tài đan lát hình những
con giống, khắc gọt mô hình những công cụ lao động mà tổ tiên đã sáng tạo trong
quá khứ xa xăm; khắc gọt những đóa hoa tỉ mỉ tết thành từng tràng hoa rực rỡ
sắc màu và bố cục trang trí thành nhiều tầng, tỏa rộng trên cây hoa vũ trụ như
những hạt nắng, hạt mưa, hạt âm, hạt dương cơ bản của thiên nhiên ban tặng cho
con người từ thuở con người có ý thức trồng trọt và chăn nuôi trong nắng sớm
mưa chiều, tự nuôi sống bầy đàn của mình.
6.NGHỆ
THUẬT TRANG TRÍ TRÊN VẢI:
Người Thái gọi đồ án trang trí vải dệt có
hai màu: nền đen (chàm đậm); họa tiết trắng (lái ăm), lái=vằn, ăm= đồ đan, tức là vằn trên đồ đan.
1.
Thuật ngữ “lái
ăm” cho thấy mối quan hệ giữa kiến trúc đan bằng tay tạo hoa văn trên đồ
đan và đan bằng sợi vải trên khung dệt để tạo hoa văn trên đồ vải có cùng nguồn
gốc kiến trúc và 4 dạng tạo hình trang trí. Kĩ thuật đó đã tạo nên phong cách
tạo hình trang trí hình kỉ hà rất đặc sắc. Muốn sáng tạo những họa tiết trang
trí hình kỉ hà, tác giả phải có trí tưởng tượng trừu tượng hóa nguyên mẫu thao
quy luật hình kỉ hà-gãy góc, có chiều hướng biểu tượng là chính, nên có tính
cách điệu hóa, giàu chát trang trí đăng đối, bố cục chặt chẽ. Trên nền tảng cơ
bản của hoa văn “lài ăm”, người Thái đã phát hiện được các loại kĩ thuật dệt và
thêu hoa văn nhiều màu trên vải: làm phối màu của vải dệt cạp váy người Mường.

2.
Dệt
những pe khít nhiều màu tạo nên những đường diềm bố cục ở hai bên để làm tôn
một nền màu đỏ thắm, rực rỡ (nhuộm bằng cánh kiến).
Hai loại vải đó có tên gọi là “khít” , đều dùng con thoi để dệt toàn vẹn
các dải “pe khít” có họa tiết khác
nhau.
3.
Người
ta chỉ dải hoa văn “lái ăm” thành
những chi tiết rồi dệt từng chi tiết đó bằng cách gài sợi màu (theo kiểu dệt)
tùy ý thích. Như vậy trong dải hoa văn “lái
ăm” là một tập hợp nhiều chi tiết được dệt – gài sợi bằng những màu khác
nhau. Vì vậy loại vải này được gọi là “khít nhó” hoặc “khít khẳm khép” (khảm
ghép nhiều màu). Loại hoa văn, loại kiến trúc dệt này có ảnh hưởng sâu sắc tới
kiến trúc thêu truyền thống, phổ biến của phụ nữ Thái. Tiêu biểu nhất là khăn
đội đầu “piêu” của phuk nữ Thái Đen vùng Tây Bắc và trên vải may gấu váy của
phụ nữ Thái vùng tây Thanh Hóa và tây Nghệ An.



7. ĐỒ
CHẠM BẠC – TRANG SỨC:
Đồ
chạm bạc nổi tiếng độc đáo của người Thái là các khuy bạc chạm nổi thành hình
bướm để làm khuy áo của phụ nữ.
Đồ trang sức có: hoa tai, trâm cài tóc,
vòng cổ, vòng tay, xà tích…
8. ĐỒ
GỐM:
Có
hai địa điểm làm đồ gốm nổi tiếng ở vùng Thái Tây Bắc: Mường Chanh (Mai Sơn-
Sơn La), Chiềng Cỏi (thị xã Sơn La- Sơn La). Kĩ thuật tạo tác gốm còn giữ được
nhiều yếu tố đò gốm nguyên thủy:
-
Tạo
dáng không có bàn xoay: chủ yếu dùng bàn vả, một thứ dụng cụ để dập các thỏi
đất nhuyễn vào nhau. Muốn tạo một đồ gốm để có dạng tròn như chum, vại…người
thợ gốm phải dùng bàn vả để dập, để vuốt đò gốm và phải chủ động đi quanh đồ vật trong khi đồ vật để yên 1 chỗ trên giá
đỡ. Tuy vậy đến nay đã học được kĩ thuật dùng bàn xoay.
-
Tạo
họa tiết bằng cách khắc vạch thành các hoa văn đơn giản, hoặc đắp nổi các họa
tiết bằng cách gắn thêm các dải đất xoe tròn, vê nhỏ.


Nhiệt độ nung thấp. Sản phẩm gốm Mường
Chanh có dạng sành; gốm Chiềng Cỏi dạng đất nung. Tất cả đều chưa có lò nung mà
dùng cách đốt lò lộ thiên.


9. ĐỒ
ĐAN:
Tre, nứa, dang, mây… là những thứ cây đặc
sản của miền nhiệt đới được người Thái tận dụng để đan thành những đồ dùng phục
vụ sinh hoạt, sản xuất.
Người ta thường dùng cách đan long mốt,
long đôi để tạo nên các vằn hoa văn đơn giản gọi là “ lái ăm”. Hoặc dùng nan đã
chuốt kĩ, hun khói bếp để lấy màu nâu từ đậm đến nhạt, để đan xen kẽ, cài hoa
trên nền đồ đan có nan trắng ngà. Các kiểu đồ đan có khối hình đặc sắc và phù
hợp với công năng của nó.
Các loại như: đồ đựng nhạc cụ, đồ dùng gia
đình…Ngoìa ý thức sử dụng người ta còn chú ý tới sự gia công tạo cho khối hình,
đường nết trang trí thuận mắt, ưa nhìn, có giá trị thẩm mỹ.


IV. VĂN HOÁ
TINH THẦN
1.
NGÔN NGỮ:
Là
tài sản vô giá của bất kỳ cộng đồng tộc người nào. Là công cụ giao tiếp nhưng
ngôn ngữ là sản phẩm của lao động,chỉ có con người mới có ngôn ngữ và nhờ ngôn
ngữ mà con người sống thành xã hội ,dân tộc.Ngôn ngữ người Thái được coi là gía
trị văn hoá đặc biệt.
Người
Thái cũng là tộc người có văn tự từ lâu đời.Tiếng Thái thuộc nhóm ngôn ngữ
Tày-Thái(Ngữ hệ Thái-Kađai),còn chữ Thái thì thuộc dòng chữ Phạn.Chính nhờ có
văn tự mà cha ông họ đã ghi chép lại được rất nhiều truyện cổ tích, truyền
thuyết (quắm tố mường – kể chuyện bản mường ),gia phả của các dòng
họ,những lời răn dạy con người (quắm xon cốn), những quy định mang tính
chất luật tục của các mường (Tục lệ người Thái Đen ở Thuận Châu), những truyện
thơ, do tác giả hữu danh, vô danh sáng tác (Xống chụ xon xao – Tiễn dặn
người yêu, Khun Lú náng Uả - Chàng Lú nàng Uá …Các tác phẩm văn học của
người Kinh, người Hán chuyển sang tiếng Thái và lưu truyền trong cộng đồng
2. TÍN
NGƯỠNG, TÔN GIÁO:
Không giống như người Mông và
người Dao, người Thái không theo một tôn giáo cụ thể nào, mặc dù văn hoá của họ
anhhr hưởng tư tưởng Phật giáo. Tín ngưỡng dân gian Thái gắn với quan niệm: Van
vật hữu linh: Mỗi ngôi nhà, bờ suối, gốc cây, hòn đá, cánh rừng, các đồ vật
xung quanh … đều có hồn ngụ ở đó và chịu sự cai quản của Then luông. Người Thái
cho rằng, không những con người mà mọi vật dều có cuộc sống được quy định bởi
các phi.
Phi có nhiều loại,trong những
hoàn cảnh cụ thể khác nhau về ý nghĩa, chức năng trong đời sống tâm linh của
cộng đồng : Phi Then – cai quản tất cả các phi; Phi bản, phi mường cai quản
cuộc sống của dân trong bản mường; phi hướn phù hộ cho cuộc sống của mỗi gia đình;
phi pà ná là ma rừng; phi ma là ma ruộng.
Bên cạnh ph, người Thái còn có
khái niệm mí khoăn (hồn). Mỗi cơ thể
con người đều có rất nhiều khoăn
(khỏng 80 khoăn). Sự cân bằng của cơ thể do các khoăn đảm nhiệm. Các khoăn ngụ
ở các bộ phận khác nhau và có chức năng ,vai trò khác nhau. Khi khoăn ở bộ phận
nào đi vắng thì bộ phận đó sẽ có trcj trặc nhất định, cơ thể sẽ bị đau ốm, mệt
mỏi. Nếu khoăn đi xa không trở lại nữa thì cơ thể sẽ chết, các khoăn sẽ biến
thành phi.
Quan niệm của người Thái cũng
cho rằng, có 2 thế giới tồn tại song song là Mường Trời và Mường người. Mường
người là thể giới thực mà người Thái đang sinh sống. Mường trời là vùng rộng
lớn của cõi trời, nơi ở của các then, trong đó Then luông là then đứng đầu
mường trời. Dưới then luông có các vị then tạo ra quyền lực của phong tục và
chuyên trừng trị những người làm sai trái, then tạo ra nghèo túng, tạo sự sinh
đẻ, điều khiển tuổi thọ, tạo sắc đẹp, tạo ra các hiện tượng thời tiết …
Như vậy, người Thái tin rằng :
các lực lượng siêu nhiên, then và phi đều có ảnh hưởng rất to lớn đến đời sống
của họ. Hạnh phúc, may mắn hay bất hạnh, rủi ro của con người đều do các lực
lượng trên chi pjối. Chính vì vậy mà từ
xưa người Thái đã có tục thờ cúng để bày tỏ nguyện vọng, quan niệm của con
người trong thể giới thực tại và trong thế giới hư vô.
+ Thờ cúng tổ tiên :
Người Thái thường có những khu vực thờ cúng
riêng đối với từng tông tộc, dòng họ hay gia đình.
Người đúng đầu dòng họ thường được thờ ở
nơi trang trọng trong khu vực thờ dòng họ. Việc thờ cúng do trưởng họ đảm
nhiệm.
Những người sống chung trong một gia đình
thì cùng thờ chung ma nhà ( phi hướn), người chủ gia đình thay mặt cả gia đình
cúng ông bà tổ tiên.
Bàn thờ là mộ ngôi nhà sàn nhỏ (tượng
trưng) bằng tre nứa có vách, có sàn đan hình đuôi cá. Bàn thờ này thờ tổ tiên
ba đời của chủ nhà. Người Thái quan niệm ma nhà luôn ở bên cạnh con cháu, chăm
sóc đến mọi mặt của đời sống gia đình. Những ma tổ tiên ở trên mường trời hay
ngoài rừng không có ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của con cháu chỉ trong các
dịp lễ tết đồng bào mới khấn mời về.
+ Các nghi lễ nông nghiệp:
Thường được tổ chức vào tháng
8, khi những đàn chim màu đen bay xuống ăn sâu ở ruộng lúa, đồng bào Thái
thường làm một lễ nhỏ ngay tại ruộng. Họ dựng một cái miếu con ngay giữa ruộng
và sửa soạn một mâm cơm cúng gồm: một con lợn, cơm, rượu, đồng thời nhổ một
khóm lúa đặt bên cạnh mâm cúng với mong ước lúa sẽ tốt tươi, trnhá được sâu
bệnh.
Lễ này cũng có ý nghĩa cám ơn
những con chim màu đen đã giúp người nông dân trừ được sâu bệnh, bảo vệ mùa
màng.
+ Cột
lắc mường biểu thị vận mệnh của mường :
Vận mệnh của toàn mường và chúa đất phụ
thuộc vào vận mệnh chiếc nhà sàn tượng trưng được dựng lên nhân dịp chúa đất
lên cầm quyền. Nhà nằm trong lòng đất,cột chính ngôi nhà này gọi là cột lắc
mường nhô lên khỏi mặt đất.Người Thái tin rằng Then Luông ngồi trên trời
giữ lấy dây mường nối với cột lắc mường:
Nếu cột lắc mường vững chắc ấy là Then Luông còn giữvững chắc dây
mường, khi đó chắc chắn bản mường hưng thịnh.
Nếu Then Luông buông dây mường, khi đó cột lắc mường lung lay,bao
nhiêu thiên tai địch hoạ sẽ đổ xuống bản mường.
+Tục
đón tiếng sấm đầu mùa
Việc thờ cúng trời đất, tổ tiên của người
Thái diễn ra hang năm theo chu kỳ sản xuất nông nghiệp và lồng vào các nghi lễ
nông nghiệp chủ yếu nhằm cầu xin trời đất bảo vệ mùa màng. Theo đó, tiếng sấm
đầu mùa rất quan trọng. Nó báo hiệu cuọc sống vạn vật bắt đầu một chu kì mới
sau những ngày đông tháng giá.Cũng là lúc khởi đầu cho công việc đồng áng năm
mới.
Tại đây người ta tổ chức các lễ xên mường,
xên bản, Xên hươn mời Then và các vị thần đất,thần ruộng,thần song và tổ
tiên về dự.Nhiều hội hè vui chơi diễn ra trong ngày đón tiếng sấm đầu mùa.
+ Lễ ăn mừng cơm mới và tục cúng hồn lúa
Người Thái làm các lễ cúng ma ruộng mỗi khi
cày bừa,khi gieo mạ,khi gặt hái.Khi bắt đầu lúa chín cũng là lúc mọi người tiến
hành lễ cúng cơm mới.
Chủ nhà hái vài lượm lúa về treo trên vách bàn thờ ma nhà hay cột nhà
chính.Sau đó mọi người tiến hành ăn mứng cơm mới.
Người
Thái ở sông Mã,Thanh Hoá,Nghệ An có tục cúng hồn lúa.Người ta làm mâm cúng đặt
lên chân rạ,khấn cảm ơn hồn lúa.Rồi họ bện bù nhìn rơm tượng trưng cho hồn
lúa,rước về nhà,đặt lên bịch thóc.Hồn lúa sẽ ngủ lại trong nhà suốt mùa đông
giá rét,đợi đến ngày sấm đầu mùa chủ nhà sẽ đánh thức hồn lúa dậy.
3.Lễ
tết:
3.1.
TẾT ĂN CÁ (Dân tộc Thái – Thanh
Hoá )
Vùng Cổ Lũng có tục ăn tết phải chuyên dùng
món cá.Từ ngày 29 tháng Chạp,dân làng đổ ra song suối đi bắt cá không kể con
nhỏ con to.Cá đưa về chuẩn bị thành mâm cỗ.
Con cá to nhất đem nướng riêng,gọi là cá đầu mâm.
Còn các loại cá khác thì dung biện thành 3 món : Cá độn cơm,cá mọc, cá
nướng.
+ Cá độn cơm là cá nướng vàng ,đồ lên như xôi,vứt hết xương,vảy rồi độn
với xôi nếp cái
+ Cá mọc là cá dùng làm nhân bỏ vào trong bánh bột gạo nếp,gọi là mọc. Có mọc 9,mọc 7,mọc 5 và mọc 3. Những con số này chỉ lượng cá dùng làm nhân.Mọc 9 là bánh mọc dung đến 9 con cá để làm nhân.
+ Cá nướng thì để riêng,kẹp trong que thành từng gắp.Có gắp 9 con,gắp 7 con … đem nướng trên than rồi đem đồ.
+ Cá mọc là cá dùng làm nhân bỏ vào trong bánh bột gạo nếp,gọi là mọc. Có mọc 9,mọc 7,mọc 5 và mọc 3. Những con số này chỉ lượng cá dùng làm nhân.Mọc 9 là bánh mọc dung đến 9 con cá để làm nhân.
+ Cá nướng thì để riêng,kẹp trong que thành từng gắp.Có gắp 9 con,gắp 7 con … đem nướng trên than rồi đem đồ.
Mâm cỗ cá:Cá đầu mâm để giữa,các gắp cá nướng,cá độn cơm ,cá mọc để xung
quanh.
Sau khi cúng lễ,gia đình quây quần bên mâm cá liên hoan.Trước khi ăn phải có lời chúc tụng bằng tiếng Thái,tạm dịch như sau :
Sau khi cúng lễ,gia đình quây quần bên mâm cá liên hoan.Trước khi ăn phải có lời chúc tụng bằng tiếng Thái,tạm dịch như sau :
Cô ăn cơm độn cá
Chú ăn cá độn cơm
Cho cánh tay vắt sừng trâu ra nước
Cho bàn chân đạp mảnh bát ra lửa
Tay trỏ vào rừng hổ cụp đuôi
Chân đạp xuống nước,thuồng luồng tróc vảy
Mùa tết tới khoẻ hơn tết này.
Chú ăn cá độn cơm
Cho cánh tay vắt sừng trâu ra nước
Cho bàn chân đạp mảnh bát ra lửa
Tay trỏ vào rừng hổ cụp đuôi
Chân đạp xuống nước,thuồng luồng tróc vảy
Mùa tết tới khoẻ hơn tết này.
3.2. TẾT RỬA MẶT:
Tục
này tiếng Thái gọi là Xuôi ná pi mớ.
Ngày
đầu năm già trẻ gaí trai trong bản đổ xô ra suối hoặc các mó nước .Trên đường
đi,họ với tay bẻ lấy 1 cành cây,thường là cành cây ổi,hoặc cây bông (hoa).Mỗi
người cúi xuống hớp 1 ngụm nước suối xúc miệng,rồi rửa mặt. Đoạn họ nhúng cành
ổi xuống suối,vẩy (khoát) nước rải lên mình,vừa vẩy vừa đọc lẩm nhẩm những câu
ca. Lúc rửa mặt thì đọc câu:
Mặt
ta bẩn ta đến rửa
Ta dậy sớm trước chim
Ta đến rửa mặt trước chuột
Người trên thấy họ thương
Người khôn thấy họ mến.
Ta dậy sớm trước chim
Ta đến rửa mặt trước chuột
Người trên thấy họ thương
Người khôn thấy họ mến.
Khi
khoát nước vào mình họ đọc:
Ta đến kéo cái xấu trong
người ta ra
Ta
đến đỏ cái xấu trong người đi sạch
Thiên hạ làm bùa mê ta phủi
Ông tạo bỏ thuốc độc ta phủi
Gái tơ nói điều xấu ta phủi
Ta phủi nó trôi theo con suối
Ta rũ cho sạch hết xấu xa
Thiên hạ làm bùa mê ta phủi
Ông tạo bỏ thuốc độc ta phủi
Gái tơ nói điều xấu ta phủi
Ta phủi nó trôi theo con suối
Ta rũ cho sạch hết xấu xa
Trẻ
em chưa biết kể,biết nói thì người lớn kể giùm.Sau đó họ buông cành ổi cho trôi
theo dòng nước.Rửa mặt xong,mọi người mới ra về bắt tay vào công việc của ngày
tết.
3.3.
HỘI HOA BAN
Hằng năm cứ vào dịp tháng
2 âm lịch ,thời tiết nắng ấm,ở vùng Tây Bắc hoa ban bắt đầu nở trắng núi,trắng
rừng.Lúc này cũng là thời kì lúa chime gặp mưa xuân xanh mơn mởn trên các cánh
đồng lúa nước
Ở Sơn La,cứ sang xuân ,hoa ban
nở,nam nữ thanh niên trong các bản mường lại rủ nhau đi hội chơi núi,hái hoa
mừng xuân,cũng là dịp nam nữ thanh niên vui chơi,ca hát ,đánh đàn tính,thổi
kèn,múa xoè,trao và đón nhận tình yêu.
Từ sáng tinh mơ,tiếng trống,tiếng
chiêng âm vang truyền lan núi rừng .Các bếp nhà sàn lửa đỏ :đồ xôi ,thái
măng;có nhà mổ lợn bày cỗ .Rượu cần từng vò lớn ,nhỏ được bê ra để chuẩn bị đãi
khách .Đó là công việc của lớp trung niên và người già.Còn những chàng trai cô
gái thì áo quần,khăn váy chỉnh tề ,gọi nhau í ới và đổ ra đường dẫn đến những
cánh rừng có nhiều hoa ban nở .Họ chọn
những cành hoa đẹp nhất để tặng người yêu và biếu cho bố mẹ.
Cũng trong ngày hội này ,trên dòng Nậm Na,
diễn ra các cuộc hát giao duyên của nam nữ trên thuyền.Các cô gái duyên dáng che ô ngồi ở
mũi thuyền ,bên cạnh những bó hoa ban
tươi thắm vừa mới hái,cất lên tiếng hát những bài dân ca mượt mà ,giãi bày cảm
xúc và tâm trạng riêng tư,trong khi các chàng trai ngồi ở phía dưới đuôi thuyền
,vừa lái thuyền vừa đánh đàn tính,thổi sáo.
Người Thái ở huyện Mai Châu (Hoà Bình)lại có thủ tục mở hội Xên bản,xên mường .Hội mở vào dịp hoa ban nở ,nên có tên là hội Hoa ban.Hội tổ chức định kì hàng năm nhưng quy mô to hay nhỏ còn tuỳ thuộc vào thời tiết có liên quan đến sự được mất của mùa màng năm đó .Vào khoảng tháng giêng .người Thái rất chú trọng đến tiếng sấm là dấu hiệu linh thiêng ,là “lời phán quyết của vua trời” có liên quan đến cuộc sống của bản,mường,của mùa màng năm đó.
Người Thái ở huyện Mai Châu (Hoà Bình)lại có thủ tục mở hội Xên bản,xên mường .Hội mở vào dịp hoa ban nở ,nên có tên là hội Hoa ban.Hội tổ chức định kì hàng năm nhưng quy mô to hay nhỏ còn tuỳ thuộc vào thời tiết có liên quan đến sự được mất của mùa màng năm đó .Vào khoảng tháng giêng .người Thái rất chú trọng đến tiếng sấm là dấu hiệu linh thiêng ,là “lời phán quyết của vua trời” có liên quan đến cuộc sống của bản,mường,của mùa màng năm đó.
Tiếp theo hội là một số ngày
kiêng kị.Nhà nào nhà nấy đều đóng cửa ,cài cành lá xanh,người trong nhà nghỉ đi
rừng,đi rẫy và không tiếp khách lạ.
Hội Xên bản xên mường mở vào mùa
hoa ban nở là hội cầu mùa,cầu phúc của người Thái.Họ gửi gắm vào đó những ước
vọng lớn lao về cuộc song bình yên ,no ấm nơi bản mường,đồng thời cũng là dịp
thi tài,vui chơi ,trai gái tìm hiểu,tâm tình qua tiếng hát,tiếng đàn….
4. DÂN CA -
NGHỆ THUẬT DÂN GIAN:
4.1 KHẮP:
Khắp
( hoặc là khặp ) là 1 loại dân ca của người Thái. Khắp có nghĩa là hát,hát để
kể lẻ tâm tình, để động viên lao đọng, để vui chơi. Chưa có sự nghiên cứu phân
loại nào về kho tàng của khắp ta chỉ thấy ở từng địa phương thường ghép thuật
ngữ khắp vào lời ca điệu hát của mình để gọi thành tên cho dễ.
Ví dụ :
- Ở
các vùng Tây Bắc,tại Mường Lay ta gọi là Khắp Tảy Lay,tại Mường Xo (Phong Thổ)
gọi là Khắp Tảy Xo; Ở Quỳnh Nhai là Khắp Tảy Chiên; ở Thuận Châu là Khắp Tảy
Muổi, ở mỘC Châu là Khắp Tảy Xang.
- Ở Thanh Hoá ,nếu là người Thái ở Lang
Chánh hát thì gọi là Khắp Mường Chánh, ở Thường Xuân thì gọi là Khắp Mường
Hương. Đi bè trên sông Mầm hát thì gọi là Khắp lóng má,trên sông Chu gọi là
Khắp lóng xăm. Ngay ở 1 bản mường ,người mạn dưới hát gọi là Khắp pọng tớ, ở
mạn trên hát gọi là Khắp pọng nưa.
Những
bài hát khắp ở từng môi trường sinh hoạt cũng được đặt tên khac nhau.Hát ở tiệc
rượu gọi là khắp mú lẩu; Hát trong đám cưới gọi là khắp tỏn pạn xóng nảng (đón
đưa nàng), hát tỏ tình trai gái giọ là khắp báo xao.
Có
khi người ta nghe theo điệu cao thấp,nghe theo người hát mà đặt tên. Bài hát du
dương của đôi trai gái tự tình gọi là khắp xon láy. Hát cần cao giọng cho tiếng
hát vang xa gọi làv khắp ơi! Bà táy hát gọi là khắp mụt, ông mo hát gọi là khắp
mùn . Hát đố là khắp thả, hát ghẹo là khắp kẹo hoặc khắp cưa.
Ở
Nghệ Tĩnh,người hát lại chia ra :
-Khắp xư: dành để kể câu
chuyện đời xưa.
-Khắp
ơi: hát khi đi rừng làm nương ( chỉ 1 người hát)
-Khắp
ọt èo : điệu hát riêng của các thanh niên ( người già không hát )
-Khắp
ảm pùn,khắp phả ái : điệu hát khi say,muốn xin miễn không phải uống nữa.
Lời
hát trong khắp là những lời được sắp xếp
có vần, điệu như những câu thơ. Hình như chủ yếu là loại thơ 7 chữ,5 chữ đôi
khi có thên bớt.Không thấy những câu lục bát hay tương tự lục bát như ở dân tộc
Kinh và cũng không gặp những bài kiểu bát cú,tứ tuyệt như ở dân tộc Tày.Vàn
thường gặp là vầm lưng,rơi vào chữ thứ 3 ,thứ 5 trong câu 7 chữ.Vần thường đặt
theo lối gieo vần gián cách,song nhiều khi chỉ chú trọng chuyển thanh hơn là
theo đúng vần .
Lời
khắp có thể hát đơn ca hoặc tốp ca . Âm điệu thường réo rắt ,gợi cảm .Khắp ơi
thường có âm điệu cao, ngân xa,son láy thiên về trầm.Một số đoạn trong khắp xứ
có khúc thức gọn mạnh mẽ lôi cuốn. Trên sông nước một vài đoạn lóng má,lóng
xăm,có giặm thêm ca những tiếng dô,hầy … Khắp có thể được các nhạc cụ đệm theo.
Đi kéo gỗ có thể mang cả cồng chiêng đệm cho lời hát.Trong các buổi diễn xướng
nghi lễ,các ông bà khắp mùn.khắp mụt vẫn co cồng chiêng phụ hoạ cho những bài
khắp hoặc những lời mo. Khắp còn được hát với khèn loại pí pé ( khèn bè),hát
với sáo loại pi – khúi ( sáo dọc )
Khắp
không có thủ tục nhưhát ghẹo,hát quan họ ,hát đúm; không có thể thức riêng như
hát lẻ,hát cuộc; cũng không dành chuyên cho 1nghề nghiệp,1 sinh hoạt riêng nào.
Khắp không phải chủ yếu là trữ tình như
xướng nhưng loại khắp báo xao lại rất tình tứ,hấp dẫn.Những đoạn trong cả
bài như Xống chụ xon xao vẫn được dùng
để hát khắp.Nhiều địa phương cũng có hát đối đáp bằng những bài hát khắp để vừa
tỏ tình,vừa kiểm tra tri thức bên nam bên nữ.
4.2. HẠN
KHUỐNG:
Là
một loại diễn xướng dân gian,chủ yếu là hát đối đáp,giao duyên của người Thái (
Tây Bắc)
Vào
mùa thu,mùa đong ,những mùa khô ráo và tương đối nhàn rỗi,người Thái lại tổ
chức sàn hoa Hạn khuống.
Sàn
hoa cao khoảng 1,5 m ,dài từ 5-6 m ,lan can tre nứa,xung quanh đan hoa văn mềm
mại .Một cây nêu dựng ở cính giữa sân khấu và 4 cây khác dựng ở 4 góc .Trên cây
nêu troe chim muông,ve sầu và những dây xích đanbằng lạt nhuộm màu ngũ sắc.Tất
cả các đốt trên cây đều được tiện gọt khá cầu kì,sơn xanh đỏ.Các góc sàn đều
bắc cầu thang lên xuống bằng những ống bương ghép lại.Những cầu thang này không
chỉ có gía trị sử dụng mà còn được dùng như một đạo cụ sân khấu (thang chỉ bắc
xuống khi các chàng trai hát đối đáp thắng)
Điều
khiển hạn khuống là 5 cô thiếu nữ xinh đẹp,khéo léo.Bốn cô điều khiển cây “Lắc
xáy” gọi là “sao lắc xáy”,còn cô đảm
nhiệm cây lắc xáy gốc gọi là “sao tổn khuống”.
Khoảng
8-9h tối hát đối đáp giao duyên của sân khấu hạn khuống bắt đầu.Mỗi hồi
trống,chiêng,chũm chọc rung lên người đánh trống liên tục thay đổi tư thế,nhún
nhảy say sưa.Người điều khiển chiêng trống thật uyển chuyển,mềm mại còn người
chơi chũm choẹ khi ngồi xổm,khi đứng dậy nhảy múa thật hấp dẫn.
Dứt
hồi trống chiêng,sao tổn khuống mời 1 cụ già có uy tín nhất lên mở màn đêm hạn
khuống.Các cô gái “sao lắc xáy” ngồi quanh bếp lửa hạn khuống,các cụ già hát
lời chào mừng và các cô gái đáp lễ .Sau đó các cụ già xe chỉ, đan lưới ,kể
chuyện cho con cháu nghe,các cô gái thì quay sa,kéo sợi .têm trầu.Thang đượ rút
về đựt bên bếp lửa.Các chàng trai tìm đến hát với các cô gái “sao lắc xáy”,nếu
thắng cuộc thang mới được bắc để các chàng trai lên.Cuộc hát đối đáp không chỉ
là cuộc thử tài mà còn mang cả tính kịch nữa.Nếu các cô “sao lắc xáy “bằng lòng
,họ múa khăn để biểu lộ sự đồng ý,nếu các cô múa điệu chèo thuyền thì thang
không được bắc và các chàng trai không thể lên sàn hạn khuống.Bởi vậy ,phải có
nyhững lời hát nào đó để các cô chấp thuận.
Khi
thang được bắc lên,các chàng trai phải hát đối đáp sao cho có thể được ghế
ngồi, được mời nước,mời thuốc.Nếu thắng,các chàng trai phải hát đối với “sao
tổn khuống”.Các khán giả của hạn khuống luuôn chia làm 2 phe,người ủng hộ các
cô gái,người ủng hộ các chàng trai và tìm cách nhắc bài cho người hát đối đáp
mà mình ưa thích.
Cứ thế bên ánh lửa,cuộc hát
đối đáp thâu đêm,hết ngày này sang ngày khác.Sinh hoạt hạn khuống không đêm nào
giống đêm nào,với thời gian có thể kéo dài suốt mùa thu sang mùa đông và nó có
sức cuốn hút kì lạ.
4.3.
MÚA XOÈ:
Xoè là hình thức sinh hoạt văn nghệ cộng đòng phát triển mạnh mẽ ở
người Thái Tây Bắc. Xoè Thái Mai Châu vừa mang tính phổ biến chung của xoè Tây
Bắc vừa mang những nét riêng của địa phương.
Bên cạnh các hình thức múa đơn như: Xoè đánh trống, xoè đánh chiêng …
+ Xoè ồng bổng :
Là loại xoè cổ nhất chỉ dành cho nam giới
Người ta nắm tay nhau nhảy quanh đống lửa hay vò rượu cần trong cuộc
vui.
Động tác của loại xoè này mạnh mẽ, khoẻ khoắn nhưng đơn giản ,không có
nhạc đệm.
+ Xoè chá:
Là điệu múa trong lễ chá chiêng. Trước khi mổ thịt con vật cúng, ông
mùn và mọi người thường múa hát xung quanh con vật đó để xin phép Then được
dâng cúng con vật đó trong lễ cầu phúc.
Xoè chá còn được biểu diễn vào buổi tối quanh vò rượu cần và cây hoa
chá.
Xoè chá có thể múa theo từng tốp nhỏ và múa tập thể theo nhịp gõ của
ống bương (bóng mu).
+ Xoè vòng :
Là điệu xoè được múa trong dịp lễ hội lớn, tập trung đông người trong
bản,trong mưòng tạo thành một vòng tròn.Mỗi vòng xoè thường xen kẽ nam nữ nắm
tay nhau cùng nhún nhảy, nhịp tay vung lên, hạ xuống theo nhịp trống ,chiêng.
+Xoè đánh máng:
Là loại xoè chỉ dành riêng cho phụ nữ
Cách xoè như sau: một tốp 6 người chia thành 3 cặp, mỗi cặp gồm 2 chày
gõ vào thành chiếc máng giã lúa, nhịp đnánh cưc nhanh và mạnh dần.
Hình thức này thường được người phụ nữ gõ khi có nguyệt thực. Họ đánh
máng để cổ vũ cho ếch chiến đấu với mặt trăng chiếm lại cây đũa thần ( theo
truyện Ếch ăn trăng của người Thái Mai Châu)
+Xoè kiếm:
Là loại xoè thường được trình diễn trong những lễ cúng mo lớn như lễ
chá chiếng, trong đó ôngmoi và những người giúp việc cho ông thực hiện những
đọng tác múa kiếm theo nhịp mo.

5.1.T ính tẩu:
Có
nơi gọi là đàn then vì sử dụng trong sinh hoạt hát then.Ta thường gọi là đnà
tính là không chuẩn,bởi lẽ tính tức là đàn,tẩu tức là quả bầu.Tính tẩu là đàn
làm bằng quả bầu khô.Tính tẩu là đàn dây gảy của các dân tộc Thái.Tày,Nùng ở
Tây Bắc - Việt Bắc.
Hộp
đàn làm bằng nửa vỏ quả bầu khô.Có khoét lỗ thoát âm mang hình hoa thị.Mặt đàn
bằng gỗ,xốp,mỏng,nhẹ không sơn,cần đàn dài không có phím. Đuôi đàn uốn cong ra
đằng sau ,có treo những quả nhạc vừa để trang trívừa để khui9 cần thì hoà
nhịp,giữ nhịp theo bài ca.Xưa kia dây tính tẩu làm bằng sợi tơ xe lăn,ngày nay
người ta dùng sợi ni lông.Tính tẩu của người Thái mắc 2 dây,của người Tày ,Nùng
mắc 3 dây, ở giữa là dây trầm.Người ta dùng ngón trỏ (tay phải) để gảy đàn,tay
trái nhấn lướt trên cần đàn tuỳ theo cung bậc cao thấp khác nhau, có khi là độc
tấu có khi là vừa hát vừa đệm,cũng có khi người ta vừa đánh tính tẩu vừa múa.
5.2. Khèn
bè:
Là
loại nhạc cụ hơi của dân tộc Thái và 1 số dân tộc ở Tây Nguyên.Khèn bè là loại
nhạc cụ đa thanh.Có loại khèn 10 ống,12 ống,hoặc 14 ống. Khèn bè làm bắng ống
sậy hoặc bằng ống nứa nhỏ.Tất xcả được xếp thành 2 hàng buộc với nhau và xuyên
qua 1 bầu gỗ.Mỗi ống đều có gắn lưỡi gà bằng đồng ở đoạn tiếp giáp với bầu
gỗ.Bầu gỗ đựt ở gần phần giữa các ống;phía đầu bầu có lỗ thổi.Khi nghệ nhân thổi,
ống nào được bấm sẽ phát ra nhiều âm
cùng lúc tạo thành chồng âm thanh.
Âm
thanh khèn bè tươi vui, đầy đặn,có khả năng thể hiện các bè cùng lúc.
Đêm rừng
trăng sáng,các cô gái người Thái hát ,các chàng trai thì dùng khèn bè đệm
theo;tiếng khèn và tiếng hát quyện vào nhau rất tình tứ và thơ mộng.
6. VĂN
HỌC DÂN GIAN:
6.1.
Truyện cười:
Thể hiện tính chất thâm thuý trong ngôn ngữ
và ý tứ của người Thái . Truyện cười của người Thái có nhiều loại, có những
loại chỉ mang tính vui chơi, giải trí, có những loại châm biếm ngẹ nhàng, có
loại đả kích mạnh mẽ, sâu cay, phản ánh sinh động những mâu thuẫn nảy sinh
trong lòng xã hội Thái phong kiến.
Các tiếng cười nổi tiếng :” Bắn vào chỗ chó cắn” thể hiện sự phản kháng
của người dân dưới chế độ phong kiến; “ Xự phong”, “Ma đuổi mo” không chỉ châm
biếm chàng rể tham ăn mà dụng ý phê phán ông bố vợ có ý đồ bóc lột sức lao động của con rể,qua
đó phên phán các ông mo, ông mùn như tầng lớp ăn bám trong xã hội. “Ải Cù ải
Thoi”, “Cả Quanh,Cả Bài” đã tạo tiếng cười vui vẻ trong nhân dân sau những giờ
lao động mệt nhọc.
6.2.
Tục ngữ:
Người Thái Mai Châu có một kho tàng tục ngữ khá phong phú tổng kết cô
đọng về kinh nghiệm sản xuất và quan hệ ứng xử trong gia đình, ngoài xã hội.
-
Về
kinh nghiệm sản xuất: Sấm đầu năm trên nguồn sông Đà rửa gác
Sấm đầu năm trên nguồn sông Mã rửa thuổng
Hay : Mưa thì hoa po đỏ
Hạn
thì hoa po hồng
-
Kinh
nghiệm ứng xử:
Lười lao động thấy đói ban chiều
Lười dệt vải thấy rét mùa đông
Hay : Ruộng hoang quý trâu đực
Mường
có giặc quý người gan dạ
Phê phán cái xấu, răn dạy con người : Tham lam dân mường xa lánh
Có
việc khó chết một mình đừng kêu
Hay: Ăn có bạn mới ngon
Ở có phòng mới tốt.
6.3.
Truyện thơ::
6.3.1. KHĂM PANH:
Truyện
thơ này dài 2154 câu thơ,có một số chi tiết huyền thoại nhưng chủ yếu là 1 câu
chuyện thế sự,trình bày những biến cố thăng trầm của một bản mường .Cốt truyện
như sau:
-Tại
mường Khòong,có gia đình Khăm Panh bốn anh em,cùng dân chúng xây dựng được bản
mường.Khăm Panh gặp được nàng Mứn- 1người phụ nữ rất có tài năng và lấy làm
vợ.Nhờ có nàng Mứn chỉ đạo, đất mường Khòong trở nên trù phú.Khăm Panh và vợ có
đong con,nhiều cháu.Nhưng bọn giặc ngoài có dã tâm cướp đất nước này.Tên Khun
Ha đến xin làm việc,dần dần gây được cảm tình , được Khăm Panh gả con gái là
Khăm Xao cho.Khun Ha đã đuổi được Khăm Panh đi,Khăm Xao phải tự tử.Nàng Mứn
khởi bing đánh trả thù cho chồng,ngưng rồi cũng bị trúng tên thuốc độc chết.Gia
đình Khăm Panh tan tác,chỉ có nàng dâu thứ tư trốn được ,sau sinh ra con là
Khăm Khoong.Hồn của Khăm Panh và nàng Mứn luôn phù trợ cho cháu,bầy vẽ mưu
mẹo.Cuối cùng Khăm Khoong nhờ nhân dân giúp đỡ,khôi phục lại bản mường,giết
được cả hai cha con tên Khun Ha.
Truyện
thơ khắc họa nàng Mứn,1 người phụ nữ xinh đẹp, đảm đang,có cả tài chính
trị,kinh tế,quân sự.Ngay khi nàng mất,nàng vẫn giữu nguyên những nét đạo đức và
tài năng nên đã phù hộ cho cháu mình khôi phục được cơ nghiệp.
Truyện
Khăm Panh được phát hiện ở Thanh Hoá từ năm 1973 do Vũ Ngọc Khánh giới
thiệu.Bản dịch từ nguyên văn tiếng Thái của Bùi Tiên và Hoàng Anh Nhân,Vương
Anh.
Đoạn
trích dưới đây nói về Khăm Panh được gặp nàng Mứn và nàng đã chỉ dẫn cho gia
đìng cùng bản mường xây dựng nên một mường Khoòng thịnh vượng.
……
Về đến nhà
Khăm
Panh giao cho nàng việc khó
Đặt
cho nàng Mứn làm việc hay
Việc
khéo tay khéo chân mới đủ
Bụng
biết lo xa
Lòng
biết nghĩ đến điều lành điều tốt
Đó
là việc cầm quân đi vỡ đất
Khai
phá rừng rậm trồng lúa trỉa ngô
Người
trong mường kéo về đủ muôn
Liền
giao hco nàng cái rìu đẵn cây ra lửa
Chặt cây làm rẫy
Nàng
coi cả mừơng ban sáng đi đầy ruộng rậm
Nàng lo cả mường ban chiều vác gỗ đầy thung
Nàng
đếm người có dưu 1 vạn
…….
6.3.2. XỐNG CHỤ XON XAO(Tiễn dặn người yêu)
Đây
là tác phẩm truyện thơ dài (cũng thuộc dạng hát khắp) gồm 1846 câu thơ,là lời
than khóc của người phụ nữ.Câu chuyện kể về 2 người yêu nhau,cha mẹ chê ngheo
không gả.Người con trai cố đi buôn để kiếm tiền,khi về thì người yêu đã phải
lấy chồng.Anh tiễn bạn đi nhưng rồi người con gái bị xô đẩy đi nhiều nơi,bị đem
bán “ nghìn lần không đắt,chín chợ không trôi”.Sau họ đổi chị lấy 1 cuộn lá
dong.Người đổi được lại chính là người yêu cũ.
Anh
chỉ cốt mua về để hầu hạ nhưng nhời vật kỉ niệm cũ nhận ra người yêu.Anh cho vợ
về để kết duyên với chị.
Cơ khổ thân em bụi lấm chôn vùi
…
Anh dặn en dặn cho hết lời
Như lời thương như cho hết nhẽ
Bậc
thang cuối nhà chồng, chớ ngồi
Ghế
chị chồng ngồi,chớ đụng
Anh
chồng đẹp, đừng lả lơi
Không
phải bạn tình, đừng ngấp nghé
Gĩa
gạo đừng chửi lợn
Chăn
gà đừng chửi gà
Con
khóc đừng rủa con chết
Con
chết bù đâu ra
Con
khóc phải khẽ dỗ
Ẵm
con lên sẽ nựng
Gõ
cột nhè nhẹ ru …
Đặng Thị Mai ( nhóm 4 ) DL 16C
V. TỔ CHỨC XÃ HỘI DÂN TỘC
THÁI
A. Thiết bản mường
•
Mỗi
khu vực do chúa đất cai quản được gọi là
mường, có một ranh giới nhất định , có lịch sử được ghi lại trong các cuốn sử
chép tay ở địa phương hay truyền miệng , trong gia phả dòng họ chúa đất; có bộ
máy cai trị, có lệ luật, có các nghi thức, tôn giáo riêng…
•
Mỗi
mường lại bao gồm 1 mương trung tâm và các mường ngoại vi. Chúa đất cai quản
toàn mương lớn thông qua người con cả, người kế nghiệp tương lai của mình, cai
quản mường trung tâm và cử con cháu họ hàng hay chấp nhận các thành viên trong
các dòng họ quí tộc trông coi các mường phụ thuộc.
•
Mỗi
mường có nhiều bản, bao gồm nhiều đại và tiểu gia đình của nhiều dòng họ khác
nhau với những đường ranh giới rất cụ thể, với những lệ tục cổ truyền.
•
Bộ máy
cai trị toàn mường lớn tập trung ở 1 bản lớn giữa mường trung tâm, thường được
gọi là “Chiềng” – được xem như trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của mỗi
mường.
•
Mường
lớn được tạo thành do sự hợp nhất nhiều mường vào một mường nào đó có dân số
đông, chúa đất có thế lực. Sự hợp nhất đó có thể diễn ra theo 2 con đường hoặc
bạo lực hoặc tự nguyện, do yêu cầu của các mường nhỏ bé hơn được sự che chở của
một chúa đất để đảm bảo an ninh của mình.
•
Cơ cấu
một mường lớn thường có một mường trung tâm với nhiều Xổng và những mường những
lộng (mường nhỏ) ở xung quanh gọi là mường ngoài. Ranh giới giữa các mường hàng
châu thường biến đọng qua các quá trình lịch sử do sự tranh chấp triền miên của
các thế lực phong kiến địa phương.
•
Thực
tế cho thấy, chỉ có mường trung tâm là ít thay đổi, còn các mường ngoài hay
mường phụ thuộc nay thuộc pham vi ảnh hưởng của chúa đất này mai thuộc chúa đất
khác.
•
Trong
xã hội Thái, về hình thức mà xét tất cả đất đai ruộng nương, nguồn nước, thú
rừng …đều thuộc quyền sở hữu công cộng. Nhưng qua quá trình lịch sử, tuỳ nơi sự
diễn biến đó có khác nhau. Có nơi chúa đất thực chất là kẻ chiếm hữu đất đai,
ruộng nương.
•
Toàn
thể ruông đất thuộc toàn mường, là ruộng công. Chúa đất đại diện cho mường quản
lý việc phân phối, định mức cho các loại ruộng. Đối với ruông chúa, trong lệ
qui định ai làm chúa đất được hưởng ruộng đó; ai mất chức quyền đó cũng mất
theo.
•
B. Quan hệ dòng họ gia đình và hôn nhân
1-
Quan hệ dòng họ, gia đình
* Trong một mường một bản có nhiều dòng họ
cùng cư trú. Có dòng họ quý tộc như: họ Cầm, Bạc, Xa, Đèo, Sầm,… ở Thanh Hoá,
Nghệ Tĩnh, có những dòng họ gốc dân trở thành họ quý tộc, mang thêm chức vị
được phong bên cạnh tên họ: Hùn Vi, Mứn Quàng,… có dòng họ dân gốc Thái như:
Lò, Lộc, Lự, Quàng, Vi, Cà hay Khả, Tòng, Lèo,…; có dòng họ dân gốc khác tộc:
Nguyễn, Phùng, Lý, Sìn (Trần), Mè, Lâm,… những dòng họ quý tộc.
•
Những
dòng họ gốc Thái thường có một hèm liên quan đến một sinh vật, một vật vô tri,
hay hành động gì trùng tên với dòng họ.
•
Ví dụ:
- Họ Lò kiêng ăn thịt, giết chim táng lò, không ăn thứ măng lò…
•
- Họ Quàng kiêng giết, ăn thịt hổ
•
- Họ Cà kiêng giết, ăn thịt chim cốt
ca…
•
- Họ Vi kiêng dùng quạt (vi) để quạt
sôi…
•
Có khi
những điều kiêng kị đó liên quan đến những vật không trùng tên họ như: họ
Quàng, Lự, Lường, Lộc không giết và ăn thịt hổ; họ Lò, Vi kiêng giết, ăn thịt
rắn, lươn; họ Lương kiêng “to” tức không ăn nấm mọc trên các gốc cây đã đẵn
trên rừng và không đụng đến các gốc cây đó.
Người Thái có 3
quan hệ về dòng họ:
•
1. Aỉ noong: là những thành viên trai
của từng dòng họ, cùng tổ tiên, cùng một tôtem hay có cùng tục kiêng hèm, cùng
mộy thế hệ được thiết lập quan hệ hôn nhân với người con gái thuộc những dòng
họ được qui định.
•
2. Lung ta: là những thành viên của
những dòng họ có quan hệ hôn nhân với thành viên trai của Aỉ noong, nói cách
khác là con gái về làm dâu bên ải noong.
•
3. Nhinh xao: là những thành viên trai
của những dòng họ có quan hệ hôn nhân với thành viên gái của ải noong tức là
con trai về làm rể ải noong.
•
Trong
3 quan hệ trên, quan hệ giữa những người Aỉ noong là căn bản. Đó là quan hệ của
những người có trách nhiệm duy trì sự sinh tồn của dòng họ, chăm lo đến sự phát
triển của dòng họ ngày thêm hưng thịnh. Quan hệ Lung ta rất quan trọng biểu thị
chủ yếu là vị trí của ông cậu đối với các cháu ngoại.
Gia đình
•
Đại
gia đình: người đứng đầu đại gia đình lãnh trách
nhiệm điều khiển mọi công việc về mọi mặt về kinh tế, sinh hoạt, tín ngưỡng,
cưới xin, ma chay trong gia đình và thay mặt cho gia đình trước bản mường. Các
thành viên thường sống hoà thuận, có tài sản chung, tài sản riêng.
•
Tiểu
gia đình: là hình thức
phổ biến ở xã hội Thái trước ngày giải phóng với tính chất phụ quyền. Mỗi nóc
nhà được tượng trưng bằng chiếc cột chính ( sâu hẹ hay sâu cốc). Ở đầu cột
thường treo các vật linh thiêng. Người chủ nhà nằm ngay cột chính, bên cạnh bàn
thờ ma nhà. Chủ nhà là người đại diện duy nhất trong gia đình có liên hệ với ma
nhà, với các thành viên khác của tổ tiên.
•
Người
phụ nữ ở địa vị thấp kém hơn nam giới. Nếu đứng về mặt xã hội thì họ không được
coi là thành viên trong gia đình. Ở vùng Thái trắng (Lai Châu) con gái ngủ ở
gian khách. Con dâu phải đổi theo họ chồng. Họ không được tham gia công việc xã
hội, không được quyền tự quyết định, ngoài việc nội trợ và sinh đẻ. Những người
chê chồng hay bỏ chồng bị dư luận xã hội khinh thị.
•
2. Quan hệ hôn nhân
•
Hôn
nhân phụ quyền và mua bán mâu thuẫn với tình yêu tự nhiên của trai gái. Đôi trẻ
thường lợi dụng tình thương của bố mẹ để xin bố mẹ đổi ý kiến cho phép lấy
nhau. Nếu không được họ lợi dụng một vài tục lệ cổ truyền để phản kháng :
•
1. Rủ
nhau trốn sang mường khác hay trốn vào nhà chúa đất với điều kiện chịu làm thân
phân côn hươn.
•
2. Nếu
được nhà trai đồng ý, người con trai tổ chức cướp người yêu. Ban chiều, anh ta
tới nhà người yêu đón đi. Trước khi đi người con gái đặt miếng trầu, đồng tiền
và ít gạo vào chiếc ninh xôi với ý xin phép tổ tiên ( tổ tiên thường trú ngụ ở
bếp, ninh xôi là vật tượng trưng cho ma bếp ). Cuộc tìm kiếm thường chỉ là hình
thức. Người con gái tới nhà trai trình ma nhà và ở lại vài ngày. Sau đó người
con trai dẫn người con gái về nhà bố mẹ và xin ở rể. Nhà gái buộc phải bằng
lòng.
•
3.
Người con trai cứ mang chăn đến nhà người yêu xin ở rể, chịu đựng mọi sự đối xử
lạnh nhạt của gia đình nhà gái và cùng người yêu van nài đợi bố mẹ vợ ưng
thuận.
VI. PHONG TỤC - TẬP QUÁN
1. Lễ tết
•
a.
Tết ăn cá (dân tộc Thái – Thanh Hoá)
Vùng Cổ Lũng có tục ăn tết phải chuyên dùng
món cá. Từ ngày 29 tháng Chạp, dân làng đổ ra sông suối bắt cá không kể con nhỏ
con to, cá đưa về chuẩn bị thành mâm cỗ.
Con cá to nhất đem nướng riêng, gọi là cá
đầu mâm. Còn các loại cá khác thì làm thành 3 món: cá độn cơm, cá mọc, cá
nướng.
- Cá độn cơm là cá nướng vàng, đồ lên như xôi,
vứt hết vẩy, xương rồi độn với xôi nếp cái.
-
Cá mọc
là cá dùng làm nhân bỏ vào trong bánh bột gạo nếp gọi là mọc. Có mọc 9, 7, 5,
3. Những con số này chỉ lượng cá dùng làm nhân. Mọc 9 là bánh dùng đến 9 con cá
để làm nhân. Số lượng cá mọc trên mâm cũng là 9, 7, 5, 3.
-
Cá
nướng thì để riêng, kẹp trong que thành từng gắp. Cũng có gắp 9 con, 7 con,…
Những gắp ấy nướng trên than rồi đem đồ.
-
Mâm cỗ
cá đặt rất khéo. Cá đầu mâm để ở giữa, các gắp cá nướng, cá độn cơm, cá mọc để
xung quanh. Sau khi cúng lễ, gia đình quây quần quanh mâm cá liên hoan. Trước
khi ăn phải có lời chúc tụng. Lời chúc bằng tiếng Thái.
-
b.
Tết rửa mặt ( dân tộc Thái – Thanh Hoá)
Đồng bào Thái ở các huyện Bá Thước, Lang
Chánh, Quan Hoá có tục rửa mặt sáng mồng 1 tết. Tiếng Thái gọi tục ấy là : xuối
ná pi mớ.
Già trẻ gái trai trong bản đổ xô ra suối hoặc
các mó nước. Trên đường đi, họ với tay bẻ lấy một cành cây thường là cành ổi
hoặc là cây bông hôi. Mỗi người cúi xuống hớp 1 ngụm nước suối súc miệng rồi
rửa mặt. Đoạn họ nhúng cành ổi xuống suối, vích nước rải lên khắp người, vừa
vích vừa đọc lẩm nhẩm những câu ca.
Sau đó, họ buông
cành ổi trôi theo dòng suối. Trẻ con chưa biết kể biết nói thì người lớn kể
dùm. Rửa mặt xong mọi người mới bắt tay công việc của ngày tết.
2. Lễ hội
Lễ hội “Kin Pang Then” của dân tộc Thái trắng
Lễ hội “Kin Pang Then” là lễ hội tiêu biểu của dân tộc Thái trắng ở
Quỳnh Nhai. “Then” ở đây là thầy mo được quan niệm là cao tay hơn cả; thầy mo
được coi như người của trời được cử xuống trần gian để cứu giúp người khỏi bị
ốm đau, bệnh tật và có khả năng giao tiếp với thần linh. Hàng năm, cứ vào dịp
đầu năm, thầy mo tổ chức lễ cúng và gặp mặt các con nuôi (đó là những người đã
được thầy mo chữa cho khỏi bệnh).
Cũng như nhiều lễ
hội khác, lễ hội “Kin Pang Then” gồm có hai phần chính là phần lễ và phần hội.
•
Phần
lễ với lối hát Then
truyền thống. Qua lời hát, ông Then cầu cúng cho dân làng trong bản, trong
mường sang một năm mới có nhiều điều tốt đẹp, cho con người luôn khoẻ mạnh, no
ấm, cầu cho mưa thuận gió hoà, cho mùa màng tươi tốt và cùng với đó là lễ tạ ơn
của con cái đối với cha mẹ.
•
Phần
hội với những lời hát
Then, điệu múa, trò chơi dân gian lành mạnh như Trò mưa đá, trò cày bừa, hái
nấm, múa khăn, múa tăng bu tăng bẳng, múa vòng xoè... Bên cạnh đó, lễ hội còn
là dịp để trai gái trong bản, trong mường gặp gỡ và thể hiện mình qua những câu
hát, điệu múa. Và sau lễ hội, nhiều đôi đã nên vợ, nên chồng.
Lễ hội Xên bản.
•
Tiếng
Thái, “Xên” có nghĩa là cúng, rộng hơn là cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa vụ tốt
tươi. Hằng năm, Xên bản được tổ chức vào ngày Bính của tháng 4 (theo lịch 10
ngày của dân tộc Thái gồm: canh, tân, nhâm, quý, giáp, ất, bính, đinh, mậu,
kỷ).
•
Từ
sáng sớm, ở hai lối vào và ra của bản người ta dựng hai cổng tre, cử người canh
gác nghiêm ngặt không cho khách vào bản trong thời gian tế lễ. 8 giờ sáng, thầy
mo bắt đầu làm lễ cúng dưới gốc cây đa cổ thụ trong bản.
•
Lễ vật
gồm một đầu lợn (phải là lợn đen), hai con gà, một quả trứng, bát gạo, hương,
nến. Thầy mo lấy một bung thóc, một chiếc chài quăng cá, một chiếc búa đặt lên
bàn cúng rồi đọc tục mo (lời cúng) cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu,
xua đuổi tà ma, đem lại sức khỏe, cuộc sống ấm no cho mọi nhà. Sau đó, thầy mo
lấy một đoạn tre, bổ đôi rồi tung lên.
•
Khi
hai mảnh tre rơi xuống nếu được Xiếng (một úp một ngửa) đó là điềm tốt – lời
cầu khấn đã được Giàng chấp nhận. Lễ cúng kéo dài khoảng 30 phút, sau đó mâm lễ
sẽ đem mời thầy mo, Chảu Xửa (người đại diện cho bà con trong bản, tương đương
với chủ tế). Thanh niên nam nữ chia hai bên, ai ném còn vào vòng tròn buộc trên
ngọn một cây tre dựng giữa sân sẽ được thưởng một chén rượu. Sau lễ Xên, bà con
trong bản ra đồng cày bừa, xuống mạ, bắt đầu một vụ lúa mới.
Lễ hội Xên mường (dân tộc Thái Đen)
Lễ hội " Xên Mường" còn gọi là lễ hội cúng mường
•
Lễ hội
Xên Mường trước đây cứ 2 năm tổ chức 1 lần vào dịp năm hết, Tết đến, thu hoạch
mùa màng.
Phần lễ trong Xên Mường (cúng bản mường) gồm ông mo, bà "một" (người khấn vái chính) gọi "mời" các vị thần linh như thần sông, thần núi, thần thổ địa, thần cai quản ruộng nương, vùng miền, các linh hồn người có công dựng bản mường, đất nước và những linh hồn của những người trong bản mường đã mất về dự, "ăn", nhận các lễ vật do bản mường, con cháu dâng lễ.
Phần hội được diễn ra ngay sau phần cúng lễ kết thúc, gồm các trò chơi dân gian như: ném còn, kéo co, bắn nỏ, tó má lẹ (một trò chơi dân gian), trò chơi đánh chân đánh đầu, múa xoè bên đống lửa, tổ chức dân ca dân vũ, thăm hỏi, chúc tụng nhau (trước đây lễ hội Xên Mường diễn ra trong 3 ngày).
Lễ Cầu Mùa của
dân tộc Thái ở miền Tây Nghệ An
Lễ cầu mùa được tổ chức vào đầu vụ lúa mới
hoặc một số nơi tổ chức sau khi thu hoạch, khoảng trung tuần tháng 9 đến đầu
tháng 11 hàng năm.
Phần nghi lễ được tiến hành ngay tại nương rẫy, đặc
biệt là nơi tập trung nhiều hộ gia đình cùng làm nương rẫy nhất (Tủng hảy). Họ
thường tổ chức tại chòi canh rãy của một nhà có diện tích rẫy nhiều nhất, năng
suất cao nhất và đó phải là những gia đình có uy tín, khéo ăn ở được cả nhóm và
cộng đồng tôn trọng kính nể. Họ cắt lấy những bông lúa chín sớm những nơi tốt
nhất trong đám rẫy của gia đình mình rồi đưa lên bếp đun lên đến khi lúa nếp
nứt và chín ( tiếng Thái gọi là khầu hang) .
Ngoài xôi thì mâm
cúng của mỗi gia đình còn mổ thêm 2-4 con gà ( bắt buộc phải có một con gà
trống). Gà được luộc lên và đưa đến mỗi đám nương. Nghi lễ cúng bái bắt đầu.
Rượu được rót ra chén, trầu cau mỗi mâm 9 đôi, cùng với đó là một bát nước chè
xanh và một bát nước lã.
Việc cầu cúng được các thầy mo tiến hành.
Sau khi cúng xong, mọi người làm lễ tạ ơn theo sự điều khiển của thầy mo trước bàn thờ dựng ngay tại đám rãy, sau đó rượu được té xuống nương.
Lễ hội "Hết Chá" của người Thái trắng
•
Lễ hội
"Hết Chá" thường diễn ra vào mùa xuân, liên tục trong 2 - 4 ngày. Đây
cũng là dịp để trai gái giao lưu, tìm hiểu lẫn nhau.
•
Khi
cây nêu - tâm điểm của lễ hội, vừa được dựng lên, mang đầy đủ các ý nghĩa với
nhiều loài động, thực vật tượng trưng như: ếch, nhái, chim muông, ve sầu, cỏ
cây, hoa lá, trống chiêng, thuyền bè... ông trưởng bản đứng lên cất lời mời gọi
thần linh xuống trần ăn tết, ăn măng giữa mùa hoa ban nở và cùng đánh trống
đánh chiêng, múa xoè cho vui bản. Lời hát vừa dứt, trống chiêng nổi lên, gái
trai cùng xòe vòng, xòe hoa. Hết bài xòe
tưng bừng, trưởng bản làm nhiệm vụ kiểm tra những phẩm vật tượng trưng sự no đủ
trên cây nêu
•
. Ông
cầm kiếm đi vòng quanh, miệng cầu khấn theo nghi thức truyền thống. Khấn xong,
ông trưởng bản hướng dẫn thanh niên trai gái lần lượt lên tặng quà tỏ lòng biết
ơn. Quà thường là gạo, gà, cá, hay gói xôi, quả trứng. Ai có thứ gì thì mang
thứ đó, không câu nệ, nhưng người nào cũng phải có bởi tặng vật ấy coi như phần
góp nhỏ để vui chung cả bản. Sau phần nghi thức, những điệu xòe chá vui nhộn
mới chính thức diễn ra.
•
Trong
hội "Hết Chá" còn có những trò diễn dân gian như thi đấu kiếm, tập
trâu cày, đặc biệt còn có những tiết mục kịch câm dí dỏm theo những sự tích của
người Thái.
Lễ hội hoa ban Mường Lò
Hội Hoa ban là
ngày vui của họ hàng, của bản, mường và là dịp cho trai, gái gặp gỡ, hò hẹn. Vào ngày 5-2 (âm lịch) hằng năm, lễ
hội Hoa ban được tổ chức. Lễ vật trong nghi lễ là thịt lợn. Người Thái
quan niệm lợn là con vật thông minh, có thể làm trung gian giao tiếp với các
thần linh để thỉnh cầu những ước nguyện của dân bản. Ðồ lễ gồm có: đầu, đuôi,
bốn chân, xương thịt, lục phủ, ngũ tạng, mỗi thứ một gói. Và trong lễ vật để
dâng tế thì rượu là đồ lễ không thể thiếu.
Lễ hội thường được
tổ chức ở hang Thẳm Lé, gồm hai phần:
Phần lễ để cúng thần linh; phần hội
để tạo nên những tiếng cười. Toàn bộ phần nghi lễ được thực hiện ở ngoài cửa
hang, sau đó thầy mo vái "Then" xin mở cửa hang thì phần hội lúc đó
mới diễn ra cả bên trong và bên ngoài hang.
•
Sau lễ
cúng, bà con dân bản được vào hang dự tiếp phần hội. Nội dung của phần hội chủ
yếu là khắp giao duyên theo điệu han nê. Sau đó là các trò chơi hái hoa, múa
xòe và ném còn. Các chàng trai giúp các cô gái hái những bông hoa trắng muốt
đem về nhà. Hoa ban còn là món ăn độc đáo trong văn hóa ẩm thực của dân tộc
Thái. Món hoa ban nấu với gạo nếp thành xôi cho hương vị đậm đà, ngào ngạt
hương thơm. Khi hoàng hôn buông cũng là lúc kết thúc các trò chơi trong lễ hội.
Các chàng trai, cô gái vừa đi vừa khắp những lời chia tay nhau đầy lưu luyến,
hẹn đến mùa xuân mới, khi ban nở trắng đồi sẽ lại gặp nhau...
3. Tục hôn
nhân của người Thái
a- Dân tộc Thái (Mai
Châu)
1. Đi dạm tiếng (pay tham đo)
Khi đôi trai gái đã đồng ý tiến tới hôn
nhân, gia đình nhà trai nhờ một bà trong họ mang 2 gói chè đến nhà bố mẹ cô gái
ướn hỏi, Nếu gia đình nhà gái ưng thuận thì ngày sau trả lời.
2. Đi dạm hỏi ( pay xo quản hụ)
Ông mối thay mặt nhà trai mang theo 4 chai
rượu, 100 bánh nếp, 2 gói trầu, 2 gó chè tươi dến nhà gái hỏi ý kiến.
3. Xin ngày
cưới
Ông mối và đoàn người nhà trai mang: 200
bánh nếp, 4 chai rượu, trầu, chè, vỏ, cau, một phần tiệc cưới, một váy đẹp, hai
vòng tay bằng bạc để tặng mẹ vợ. Được sự đồng ý của nhà gái chú rể tương lai sẽ
đến nhà gái ở giúp công việc gia đình cho tới ngày cưới.
4. Lễ cưới
Nhà trai mang một lợn, tám lạng bạc, ba vò
rượu ba tạ gạo… đến nhà gái rồi tự tay nấu nướng thết đãi nhà gái và khách khứa
để làm bữa xin dâu. Trong ngày này, ông bác, ông cậu cô gái rrất được coi
trọng, có quyền bắt bẻ hà trai và quyền quyết định cho đón dâu.
Sau liên hoan và
cuộc vui hát đối đáp, nhà trai chọn giờ tốt xin phép đưa dâu về. Trước lúc
xuống cầu thang, nhà gái làm lễ nhạn rể và trao đổi của hồi môn (đệm, chăn,
gối, quần áo, vàng bạc), rồi cô dâu theo chú rể về nhà chồng. tớ nhà trai, nhà
gái làm lễ cất nón (nộp tượng trưng cho các trẻ nhà trai ít tiền) rồi mới được
lên nhà.
5. Lễ nhập
phòng
•
ở nhà
trai đến ngày thứ 3, chú rể đưa vợ về nhà (mang theo gà, rượu). Nhà gái làm cơm
đón dâu rể và làm lễ nhập phòg cho họ chung chăn gối. Việc trải chiếu đệm do
một bà già nhiều con đảm nhận.
•
Khi đã
nên vợ chồng, chú rể phải ở nhà vợ từ 1 đến 3 năm mới được đón vợ về nhà mình.
b- Dân tộc Thái
(Nghệ An)
1. Lễ đi thăm
•
Khi
đôi trai gái đã quý mến nhau và được cha mẹ đồng ý, nhà trai tìm một người mối
(phải quen biết hoặc có họ với cả 2 bên). Nếu chồng là ông mối thì vợ cũng là
bà mối của cuộc hôn nhân đó. Ông mối mang trầu cau, chai rượu, tám cái bánh
rừng sang nhà gái để đánh tiếng.
•
Cuộc
hôn nhân này muốn thành công phải được sự ủng hộ của 2 ông cậu của cả 2 bên.
2. Lễ vấn
danh
•
Tháng
sau ông mối lại đưa tiếp lễ vật tới đẻ tim hiểu thêm về người con gái và đặt
mối quan hệ cho gia đình.
3. Lễ ăn hỏi
(bết họ)
Đến tháng thứ 3, ông mối dẫn nhà trai sang
nhà gái, mang theo: một con lợn, hai con gà, hai chia rưọu, trầu csu, bánh rừng
(nhà giàu có thêm nén bạc). Xong lễ, chú rể ở lại nhà gái 7-8 ngày để mở đầu
cho thời gian ở rể. từ nay trở đi, chú rể mỗi tháng sang ở bên nhà vợ từ 10 đến
15 ngày đẻ giúp công việc. Thời kỳ này kéo dài trong 2 đến 3 năm. Nếu có tiền
cho nhà gái thì có thể rút ngắn thời gian hoặc không phải ở rể.
4. Lễ cưới
•
Khi đã
hết thời gian ở rể, nhà trai tến hành rước dâu.
•
Trước
khi đưa dâu, nhà gái phải làm lễ trình diễn của hồi môn…
•
Khi
đến nhà chồng, trước khi bước lên cầu thang đôi vợ chồng mới được ông mối làm
lễ rửa chân. Cô dâu được mẹ chồng đón và đưa vào phòng riêng. Đại diện nhà trai
bưng khay trầu, rượu ra xin cất nón cho nhà gái gọi là lễ bốt cúp.
•
Trong
buồng chú rể đã có sẵn một mâm cỗ để ông mối lam vía cho 2 vợ chồng.
•
Cô dâu
ra khỏi buồng ăn mâm cỗ mừng dâu. Sau khi cô dâu ăn một miéng khai mạc thì họ
hàng nhà gái được mời vào tiếp tục ăn. Sau đó, cô dâu được ông mối dẫn đến nơi
bàn thờ làm lễ nhập ma nhà. Cô dâu tự để áo của mình lên bàn thờ rồi quỳ xuống
lạy. Xong lễ cô dau đi mời rượu nhà chồng.
5.Lễ lại mặt
•
Sau 3
ngày, đôi vợ chồng trẻ mang nếp, gà, trầu, cau trở về nhà vợ để làm lễ xin ma
nhà vợ cho con gái theo chồng.
4. Tang ma
a. Dân tộc
Thái (Nghệ An)
•
Người
chết được khiêng đặt dọc theo hạ nhà rồi mới vuốt mặt và buộc chân tay. Người
ta giết một con gà để cúng thết đãi ngưòi nhà trời về dẫn hồn người chết đi.
•
Ở đầu
quan tài thường đặt một con dao nhọn để yểm bùa không cho ma ngoài cướp mất thi
hài.
•
Thầy
mo cúng trong đám ma có nhiều bài nhưng không thể thiếu bài “xống” (đưa) người
chết.
•
Trước
khi khiêng quan tài ra khỏi nhà, có một hồi chuông và tiếng hú dài báo hiệu.
Quan tài khiêng ra ngoài cửa thì người con trai cả ngồi xuống ngáng đường cho
thi hài đi qua. Tới gần huyệt lại ngồi như thế một lần nữa. Trên quan tài
thường phuỷ một tấm khăn thêu, nếu là đàn ông thì để một cái quần ở cuối quan
tài, nếu là đàn bà thì để một chiếc váy.
•
Người
Thái có tục lấy quả trứng gà để tìm đặt đào huyệt.
•
Trên
mộ người chết, người ta dựng một nhà sàn nhỏ, bậc cầu thang lên nhà mồ thường
là chẵn. Những vật dụng hằng ngày của người sống đều có một phần cho người
chết. Ngoài ra còn có xôi thịt và trầu cau.
•
Ngày
thứ 2, tất cả con cái ra thăm mộ. Sang ngày thứ 3, con trai hay con rể mang đĩa
trầu cau ra để mở cửa nhà mồ, mời ma về làm ma xó.
•
Trong
3 tháng để tang, con cái không được ca hát, đồ trang sức phải cất hết đi. Sau 3
tháng, thì được thay áo. Sau 9 tháng thìmọi sinh hoạt diễn ra bình thường.
b. Dân tộc
Thái (Mai Châu)
•
Lễ tắm xác
Người chết được con cái mang nước thơm,
ấm, lau mình, chỉa đầu gọn ghẽ. Sau đó, mặc quần áo cho người chết. Quần áo
thường là bộ quần áo của ngày hội ngày xưa, may theo lối cổ: áo thụng bằng tơ
nhuộm tím hay đỏ mặc ngoài, đầu đội mũ vải, lưng thắt dải, chân đi tất hoặc
cuốn vải.
•
Lễ liệm
Con cháu dùng chỉ buộc 2 ngón tay cái
và 2 ngón chân cái với nhau đồng thưòi lấy miếng vải vuông buộc cằm để khỏi bị
há miệng khi xác dần cứng lại.
Ông mo lúc đó (hoặc một người cao tuổi)
lấy hòn than vạch lên bức vải ngoài cùng (ý muốn nối số lượng vải con cháu đắp
cho).
Khi liệm xong, tang chủ mới đánh một hồi
một tiếng chiêng, chính thức báo cho dân làng biết nhà có việc tang.
Khi dân làng kéo đến đầy nhà, mọi người khóc thương cho người đã mất theo hiệu
lệnh của trống chiêng. Tất cả quỳ gối trên sàn. Một người thay mặt đoàn chia
buồn với tang chủ. Tang chủ cũng cử người đáp lễ, cảm ơn xóm làng. Lúc này con
cháu mới được khóc cha mẹ.
•
Lễ
nhập quan
•
Quan
tài làm bằng gỗ tốt hình tròn, khoét theo lòng thuyền. Mép quan tài lắp mộng
kín. Trước khi đặt xác, người ta bỏ tro bếp, bông lau vào lòng ngăn cách giữa
tro bếp và thân người là một tấm phên đan bằng tre cứng. Chôn theo người chết
có chiếu cói, đệm, gối bông lau, quần áo cũ.
•
Con
cháu cởi chỉ buộc chân tay cho người chết và nhìn vào mặt người thân lần cuối cùng
trước khi đậy nắp quan tài. Một số người cao tuổi được mời đến dùng chày giã
gạo làm động tác ấn mạnh nắp quan tài xuống. Sau đó mọi người mới buộc lạt.
•
Để cho
chắc, người ta còn đóng thêm 12 chốt buộc dây bện bằng tơ tằm đối xứng giữa
thân và nắp quan tài.
•
Bọc
lấy quan tài gỗ, có lượt “áo” (xửa cố) bằng giấy màu hình đuôi cá, gián làm 3
lớp trên tờ giấy to bản vừa khổ với quan tài. ở phần lưng quan tài gián giấy đỏ
nếu là đàn ông, giấy màu xanh nếu là đàn bà.
•
Lễ chính
•
Tang
chủ cho giết lơn to làm cỗ chính cúng bố mẹ. Đối với họ hàng gần xa tuỳ theo
tình cảm của mình mà giúp tièn, rượu, gạo, gà, vịt…
•
Ông mo
kể lai lịch người chết “ẳm óc chẩu xứa” nói với linh hồn người chết hãy về nhận
thưc ăn, đồ dùng, công cụ sản xuất của con cháu về “mường ma” làm vốn liếng
tiếp tục sinh sốngểơ thế giới bên kia. Con cháu và dân làng khóc đưa tiễn người
thân lần cuối cùng.
•
Lễ
đưa tang
•
Dân
làng mỗi người một tay buộc chặt quan tài vào 4 đòn khiêng bằng cây bương
thẳng, đẹp và cuốn thêm lượt vải để quan tài được sạch sẽ, thắp 4 cây nến cắm
vào 4 góc của đòn khiêng và chụp nhà xe bằng vải màu làm bằng khung tre hình
mái nhà chùm kín ra mồ.
•
Lễ
đưa cơm cuối (xống ngoài)
•
Lễ này
làm ngay trong ngày chôn cất hoặc sáng hôm sau. Con cháu mổ gà đưa cơm cúng tại
nhà mồ. Cùng lúc đó, họ rào dậu nhà mồ để trâu bò khỏi phá và trồng cấy vài
loại rau, làm tượng trưng vài thứ: chuồng lợn, chuồng gà, máng nước rửa chân.
Khi về, họ để lại trên nhà mồ một mâm cỗ, bộ ấm chén, giỏ đựng quần áo cũ của
người chết.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét