Thứ Tư, 17 tháng 7, 2013

DÂN TỘC DAO




Dân Tc Dao

I. Đặc điểm chung.
  1.D©n sè vµ ®Þa bµn c­ tró:

     Ng­êi Dao ë n­íc ta cã kho¶ng trªn 20 v¹n ng­êi, sèng xen ghÐp víi nhiÒu d©n téc:MÌo, Th¸i, Tµy, M­êng, ViÖt. Ph¹m vi c­ tró cña ng­êi Dao rÊt réng, r¶i kh¾p miÒn rõng nói, däc theo biªn giíi ViÖt-Trung, ViÖt-Lµo cho tíi mét sè tØnh trung du vµ ven biªnr B¾c Bé.
     Ng­êi Dao c­ tró trªn c¶ 3 vïng:
-                     Vïng cao: cã nhiÒu nói ®¸ v«i thuéc c¸c tØnh Cao L¹ng, B¾c, Th¸i, Hµ, Tuyªn, Qu¶ng Ninh vµ vïng cao T©y B¾c. Vïng nµy nói non hiÓm trë, ®é cao trung b×nh tõ 800m ®Õn 1000m, ®Êt latªrit nói cã mïn, khÝ hËu m¸t mÎ, ®é Èm cao do m­a nhiÒu, ë vµnh ®ai nµy cã nhiÒu ng­êi Dao §á, mét bé phËn Dao TiÒn vµ mét sè Ýt Dao Lµn tiÎn.
-                     Vïng gi÷a: lµ vïng cã nói ®¸ v«i xen víi nói ®Êt thuéc th­îng du B¾c Bé vµ Trung Bé cã ®é cao kho¶ng 400m ®Õn 600m. Vµnh ®ai nµy lµ ®Êt latªrit nói t­¬ng ®èi thÊp, khÝ hËu vµ thùc vËt thuéc miÒn nhiÖt ®íi. Vïng nµy lµ ®Þa bµn chñ yÕu cña Dao QuÇn chÑt, Dao L« gang, Dao TiÒn, Dao Thanh y
-                     Vïng thÊp: lµ vïng chuyÓn tiÕp gi÷a vïng nói vµ ®ång b»ng, cã ®é cao kho¶ng 200m trë xuèng. Tr­íc ®©y vïng nµy hÇu nh­ chØ cã nhãm Dao QuÇn tr¾ng nh­ng nay cã thªm mét sè nhãm nh­: Dao QuÇn chÑt, Dao TiÒn, Dao Lµn tiÎn
  2.Tªn gäi, lai lÞch vµ qu¸ tr×nh di c­:

      Ng­êi Dao sinh sèng trªn ®Êt n­íc ta d· tõ l©u nh­ng chØ ®Õn nay tªn  Dao míi ®­îc x¸c ®Þnh. C¸ch ®©y kh«ng l©u ®ång bµo cßn ®­îc gäi b»ng nhiÒu tªn kh¸c: M¸n, §éng, Tr¹i, D¹o, X¸
      Ng­êi Dao tù gäi lµ D×u miÒn hay KiÒm miÒn. Tªn M¸n lµ b¾t nguån tõ ch÷  Man. Tªn tù nhËn cña ng­êi Dao lµ KiÒm miÒn hay Kim mïn ®Òu cã nghÜa lµ ng­êi ë rõng nói. Dao lµ tªn tù nhËn cña ng­êi Dao, nã g¾n víi lÞch sö h×nh thµnh d©n téc Dao, nã ®­îc ng­êi Dao thõa nhËn vµ nay d· lµ tªn gäi chÝnh thøc cña d©n téc nµy.
      VÒ lai lÞch cña ng­êi Dao, ®Õn nay trong nh©n d©n Dao vÉn cßn l­u truyÒn réng r·i c©u chuyÖn Bµn Hå. TruyÖn Bµn Hå cã nhiÒu yÕu tè huyÒn hoÆc nh­ng lµ c©u truyÖn gi¶i thÝch vÒ nguån gèc cña ng­êi Dao.
       Nh÷ng ng­êi Dao ë ViÖt Nam th× kh«ng nghi ngê g×, hä vèn gèc ë Trung Quèc. Ng­êi Dao vµo ViÖt Nam qua nhiÒu thêi k×, b»ng nhiÒu ®­êng vµ nhiÒu nhãm kh¸c nhau. Qua gia ph¶ cña mét sè dßng hä ng­êi Dao chóng ta cã thÓ they s¬ bé nh­ sau:
-                     Dao QuÇn tr¾ng vaß kho¶ng thÕ kØ XII, hä tõ Phóc KiÕn tíi Qu¶ng Yªn ng­îc L¹ng S¬n, Cao B»ng, Th¸i Nguyªn råi míi tíi Tuyªn Quang. Mét bé phËn nhá cña nhãm nµy tõ Tuyªn Quang xu«i vÒ §oan Hïng råi ng­îc s«ng Hång lªn Yªn B¸i vµ Lµo Cai. Bé phËn nµy cã tªn lµ Dao Hä.
-                     Dao QuÇn chÑt vµ Dao TiÒn, hiÖn cã mÆt ë VÜnh Phó, Hµ S¬n B×nh, Hoµng Liªn S¬n vµ Hµ Tuyªn tõ Qu¶ng §«ng vµo Qu¶ng Yªn råi ph©n t¸n tíi c¸c ®Þa ®iÓm trªn. Hai nhãm nµy vµo ViÖt Nam cã thÓ lµ tõ thÕ kØ XV
-                     Dao Thanh y ®Õn ViÖt Nam vµo kho¶ng cuèi thÕ kØ XVII, hä ®Õn tõ Qu¶ng §«ng vµo Mãng C¸i qua Lôc Ng¹n tíi s«ng §uèng råi ng­îc lªn Tuyªn Quang. Mét bé phËn kh¸c l¹i lªn Yªn B¸i vµ Lµo Cai, vÒ sau cã tªn lµ Dao TiÎn.
-                     Dao §á vµ Dao TiÒn ë Cao L¹ng, B¾c Th¸i, hµ Tuyªn lµ tõ Qu¶ng §«ng vµ Qu¶ng T©y ®Õn còng vµo kho¶ng cuèi thÕ kØ XVIII.
-                     Nhãm Dao  L« gang vµo ViÖt Nam muén h¬n c¶ kho¶ng cuèi thÕ kØ XIX, ®Çu thÕ kØ XX.

     Tr¶i qua qu¸ tr×nh ph¸t triÓn lÞch sö cña m×nh trªn ®Êt n­íc ViÖt Nam, c¸c nhãm Dao vÉn cßn trong t×nh tr¹ng kh«ng æn ®Þnhv× ph¶i sèng du canh du c­. Vµ mét lÏ h¬n n÷a lµ hä vµo ViÖt Nam qua nhiÒu ®ît kh¸c nhau, nhiÒu con ®­êng kh¸c nhau vµ c¸c nhãm kh¸c nhau, do ®ã qu¸ tr×nh tËp hîp, qu¸ tr×nh xÝch l¹i gÇn nhau ®Ó h×nh thµnh d©n téc ®· diÔn ra rÊt chËm ch¹p. §iÒu nµy ®­îc chøng tá lµ nh÷ng yÕu tè v¨n ho¸ ®Þa ph­¬ng cßn ®­îc b¶o l­u rÊt ®Ëm nÐt.
     §Ó x¸c ®Þnh ®­îc bao nhiªu nhãm Dao, ph¶i xem xÐt mét sè téc ng­êi tr­íc ®©y còng cã tªn gäi lµ M¸n: S¸n D×u, Cao Lan, S¸n ChØ vµ Pµ ThÎn:
-                     Ng­êi S¸n D×u tr­íc ®©y cã tªn lµ M¸n QuÇn céc, M¸n v¸y xÎ, Tr¹i ®Êt. RÊt cã thÓ tõ xa x­a ng­êi S¸n D×u cã quan hÖ vÒ nguån gèc víi ng­êi Dao. Nh­ng nay kh«ng nhËn lµ Dao. Do dã kh«ng xÕp hä vµo khèi Dao.
-                     Ng­êi Cao Lan vµ S¸n ChØ, Pµ ThÎn còng t­¬ng tù.

Nh÷ng ng­êi Dao ë ViÖt Nam ®øng vÒ mÆt ng«n ng÷ mµ xÐt th× cã thÓ chia thµnh hai nhãm lín øng víi hai ph­¬ng ng÷. Thuéc ph­¬ng ng÷ thø nhÊt cã hai nhãm lín: Dao §¹i b¶n vµ Dao TiÓu b¶n. Thuéc ph­¬ng ng÷ thø hai còng cã hai nhãm lín: Dao QuÇn tr¾ng vµ Dao Lµn tiÎn. Nh­ng ®øng vÒ mÆt phong tôc tËp qu¸n vÒ nh÷ng mÆt ®Æc tr­ng cña trang phôc mµ xÐt, bèn nhãm lín l¹i bao gåm nhiÒu nhãm nhá cïng víi nhiÒu tªn gäi kh¸c nhau.
      TÊt c¶ c¸c nhãm Dao ®Òu nãi chung mét thø tiÕng lµ tiÕng Dao, ng«n ng÷ Dao rÊt gÇn víi ng«n ng÷ MÌo, hîp víi ng«n ng÷ MÌo thµnh nhãm ng«n ng÷ MÌo- Dao. Cã ng­êi xÕp ng«n ng÷ MÌo- Dao vµo ng÷ téc H¸n- T¹ng, cã ng­êi l¹i chñ tr­¬ng ng«n ng÷ MÌo- Dao thuéc ng÷ hÖ Nam A.
     Sù kh¸c nhau vÒ tiÕng nãi gi÷a c¸c nhãm Dao ë ViÖt Nam kh«ng ®¸ng kÓ, chØ ë mét sè Ýt tõ vÞc¬ b¶n vµ thanh ®iÖu, cßn cÊu t¹o ng÷ ph¸p kh«ng cã g× thay ®æi.

II. Hot động kinh tế.
1.              N«ng nghiÖp:

     +   Nguån sèng chÝnh cña d©n téc Dao lµ n«ng nghiÖp, h×nh thøc kinh doanh chñ yÕu lµ n­¬ng rÉy du canh, ruéng bËc thang vµ ruéng n­íc chØ chiÕm mét tØ lÖ rÊt nhá.
    Trªn c¶ 3 vïng cao, gi÷a vµ thÊp ®Òu cã ng­êi Dao sinh sèng nªn tuú thuéc vµo ®iÒu kiÖn tù nhiªn cña tõng vïng mµ hä cã nh÷ng lo¹i h×nh canh t¸c kh¸c nhau:
-                     N­¬ng rÉy vïng gi÷a: ®©y lµ ®Þa bµn c­ tró chñ yÕu cña ng­êi Dao, ë ®©y ®ång bµo lµm n­¬ng du canh. Nguån l­¬ng thùc quan träng la lóa n­¬ng vµ ng«. N­¬ng rÉy chØ lµm vµi vô l¹i bá ®i khai th¸c n¬i kh¸c. Ph­¬ng thøc canh t¸c nµy rÊt l¹c hËu, chÆt ph¸ bõa b·i, nhiÒu rõng c©y gç quý bÞ ph¸ huû, rõng ngµy cµng x¬ x¸c, nguån n­íc bÞ kh« c¹n, ¶nh h­ëng nghiªm träng tíi khÝ hËu, g©y lò lôt, h¹n h¸n kÐo dµi ë nhiÒu n¬i
Dông  cô s¶n xuÊt th« s¬, chØ cÇn c¸i r×u, con dao, c¸i gËy chäc lç, c¸i n¹o, c¸i h¸i nh¾t.
-                     N­¬ng rÉy vïng cao nói ®¸. Ng­êi Dao ë vïng cao ®· ®Þnh canh ®Þnh c­, hoÆc lu©n canh ®Þnh c­, trång trät trªn c¸c thöa n­¬ng hÑp cã nhiÒu ®¸ lëm chëm.. Lo¹i h×nh nµy gäi lµ n­¬ng thæ canh hèc ®¸, chñ yÕu lµ ®Ó trång ng«, ngoµi ra cã thÓ trång kª, lóa miÕn hoÆc tam gi¸c m¹ch. Dông cô s¶n xuÊt còng ®¬n gi¶n nh­ lµm n­¬ng rÉy ë vïng gi÷a. §Êt ®ai Ýt ®­îc bãn ph©n chØ cã mét sè n¬i nh­ Nguyªn B×nh( Cao L¹ng), §ång V¨n( Hµ Tuyªn), míi cã tËp qu¸n dung ph©n bãn nh­ng ®Êt ®ai l¹i bÞ sãi mßn rÊt nhanh vµ th­¬ng x­yªn bÞ thiÕu n­íc nªn n¨ng suÊt c©y trång thÊp. Ng­êi Dao ë nh÷ng vïng nµy th­êng xuyªn thiÕu ¨n vµi ba th¸ng.
-                     Ruéng n­¬ng ë vïng thÊp: Ng­êi Dao th­êng sèng trong c¸c thung lòng hÑp hay ven c¸c ®­êng quèc lé, bªn c¹nh ng­êi Tµy, Nïng, ViÖt.

  Ruéng n­íc, ruéng bËc thang lµ lo¹i h×nh canh t¸c chÝnh, ngoµi ra cßn cã n­¬ng b»ng hay lµ n­¬ng ®Þnh canh. C¸ch thøc lµm ruéng còng gièng c¸c d©n téc kh¸c ë xung quanh hä. N«ng cô cã cµy chia v«i, bõa r¨ng gç hay r¨ng s¾t, dïng søc kÐo cña tr©u bß. §i ®«i víi lo¹i h×nh canh t¸c nµy hÖ thèng thuû lîi nh­: m­¬ng, phai, ®Ëp, cän diÖn tÝch ruéng n­íc cña ng­êi Dao ngµy cµng ®­îc më réng v× ®Õn nay cã nhiÒu nhãm Dao h¹ s¬n ®Þnh c­ ë vïng thÊp. N­¬ng b»ng hay n­¬ng ®Þnh canh lµ lo¹i n­¬ng cã kh¶ n¨ng th©m canh. Nh­ng lo¹i n­¬ng nµy ch­a nhiÒu mµ chØ míi xuÊt hiÖn trong mÊy n¨m gÇn ®©y.

         Ng­êi ta b¾t ®Çu ph¸t rÉy tõ th¸ng giªng ©m lÞch cho tíi th¸ng t­.Rõng giµ, rËm r¹p cã nhiÒu c©y to vµ gÇn nguån n­íc lµ n¬i lµm rÉy tèt nhÊt. Tuy lóc ng¶ cµy cã vÊt v¶ nh­ng ®Êt ë ®©y vèn cã nhiÒu mïn l¹i co thªm tro nªn rÊt tèt. Dông cô ®Ó ph¸t n­¬ng kh«ng ngoµi con dao t­. RÉy ph¸t råi ®Ó ®é 20 ®Õn 30 ngµy míi ®èt; ®èt xong khi nµo tro than ®· nguéi, nh÷ng c©y, nh÷ng cµnh ch­a ch¸y hÕt ®­îc thu dän thµnh ®èng ®Ó ®èt l¹i hoÆc bá ra r×a n­¬ng. Sau ®ã tro than ®­îc san ®Òu trªn mÆt n­¬ng vµ b¾t ®Çu chäc lç gieo h¹t, khi gieo h¹t ng­êi ta ph©n ra thµnh tõng cÆp: 1 nam, 1 n÷. ng­êi nam ®i tr­íc dïng gËy chäc thµnh tõng hµng, ng­êi n÷ theo sau ngang h«ng ®eo mét c¸i giá ®ùng kho¶ng 2->3kg thãc, lÇn l­ît bá vµo mçi lç 15->20 h¹t thãc, råi lÊy ch©n g¹t ®Êt lÊp ®i. Ngoµi c¸ch tra lç nµy, ngµy nay ng­êi ta cßn sö dông r«ng r·i ph­¬ng ph¸p v·i h¹t. Tr­íc khi v·i h¹t, ®Êt cÇn ®­îc chuÈn bÞ chu ®¸o h¬n tra lç. Lèi trång tØa nµy cã nhiÒu ­u ®iÓm nh­ng còng cã nh÷ng nh­îc ®iÓm nhÊt ®Þnh. N­¬ng Ýt cá, ®Êt xèp gi÷ ®­îc Èm l©u, lóa mäc ®Òu , ph¸t triÓn nhanh. Nh­ng v× ®Êt xèp nªn míi v·i h¹t mµ gÆp m­a to sÏ lµm cho ®Êt vµ h¹t gièng bÞ tr«i, ®Çu n­¬ng lóa mäc th­a cuèi n­¬ng hoÆc chç ®Êt tròng lóa l¹i mäc qu¸ dµy.

          Tõ l©u ng­êi Dao ®· lµm quen víi kü thuËt trång xen canh, Ýt cã ®¸m n­¬ng chØ cã mét lo¹i c©y trång mµ bªn c¹nh c©y trång chÝnh cßn cã c¸c lo¹i c©y hoa mau kh¸c. Bªn c¹nh lóa cã ng« hoÆc ®Ëu. Ng« trång chung víi lóa ph¶i kh¸c khi trång ng« riªng. C¸c lo¹i ®Ëu còng ®­îc trång xen lÉn lóa hoÆc ng«. C¸c lo¹i nh­: Rau bao, rau c¶i, d­a, bÇu, bÝ ®Òu lµ nh÷ng c©y trång kh«ng thÓ thiÕu. Kª, khoai sä, khoai lang cã thÓ trång cïng víi ng«, chØ cã s¾n lµ ph¶i trång riªng. Ngoµi c©y l­¬ng thùc trªn n­¬ng cßn trång chÌ, håi, bå ®êu ®ã lµ nh÷ng c©y trång cã gi¸ trÞ kinh tÕ cao.
          + Trªn ®Þa bµn c­ tró cña ng­êi Dao vèn s½n ®åi cá, thung lòng vµ khe suèi nªn viÖc ch¨n nu«i kh¸ ph¸t triÓn. Nh÷ng n¬i ®· ®Þnh canh ®Þnh c­, ®ång bµo ch¨n nu«i kh¸ nhiÒu lo¹i gia sóc vµ sè l­îng ngµy cµng t¨ng. ë vïng cao vµ vïng gi÷a nhiÒu hé cßn cã ngùa vµ dª. Nu«i lîn lµ ®Æc ®iÓm næi bËt trong ch¨n nu«i cua ng­êi Dao. Lîn ®­îc chia lo¹i nhèt riªng vµ cã khÈu phÇn riªng theo tõng lo¹i. VÒ gia cÇm gµ chiÕm tû lÖ cao h¬n c¶, thø  míi ®Õn vÞt vµ ngçng. Tuy kü thuËt ch¨n nu«i ch­a ®¹t tr×nh ®é khoa häc cao, nh­ng ë vïng Dao Ýt bÞ toi dÞch. Ong mËt còng ®­îc ng­êi Dao nu«i nhiÒu, nh­ng s¶n l­îng mËt ch­a cao. Ngoµi ra cßn ph¶i kÓ ®Õn viÖc nu«i c¸ trong c¸c thïng ®Êt nhá ë gÇm s¸n n­íc, ë ao vµ ®ång ruéng.
          Tr­íc ®©y ch¨n nu«i chØ ®Ó ¨n thÞt nay ch¨n nu«i ®· cã thÞt b¸n cho nhµ n­íc nh­ng do ph­¬ng tiÖn giao th«ng cßn khã kh¨n nªn kh¶ n¨ng nµy ch­a khai th¸c ®­îc bao nhiªu.

2.              C¸c nghÒ phô gia ®×nh

ë ng­êi Dao, nghÒ thñ c«ng ch­a ph¸t triÓn vµ chØ lµ nghÒ phô gia ®×nh, nÆng tÝnh chÊt tù nhiªn theo mïa( n«ng nhµn). S¶n phÈm thñ c«ng chñ yÕu ®Ó phôc vô n«ng nghiÖp , vµ sinh ho¹t hµng ngµy. Kü thuËt s¶n xuÊt cßn th« s¬, sè l­îng vµ chÊt l­îng s¼n phÈm cßn Ýt phô thuéc nhiÒu vµo sù khÐo lÐo cña tõng c¸ nh©n.

          +  NghÒ lµm v¶i phæ biÕn ë mçi nhãm Dao. Trõ mét vµi tr­êng hîp ®Æc biÖt ë Lµo Cai, ë Hµ B¾c cã mét sè nhãm nh­ Dao §á, Dao L« Gang chØ trång b«ng lµm sîi nh­ng kh«ng dÖt v¶i, ®æi sîi lÊy v¶i. Khung cöi kh¸ th« s¬, dÖt v¶i lµ c«ng viÖc riªng cña phô n÷ nh­ng chØ lµm tranh thñ vµo nh÷ng ngµy m­a giã kh«ng ®i n­¬ng nhµn rçi.

Tr­íc khi ®em may mÆc, v¶i ®­îc ruém chµm. c¸ch chÕ biÕn chµm kh¸ phøc t¹p vµ ruém còng tèn nhiÒu c«ng phu.

Kh©u v¸, thªu thïa còng lµ c«ng viÖc riªng cña phô n÷ Dao. Phô n÷ Dao rÊt ch¨m chØ hä tranh thñ nh÷ng lóc nhµn rçi ®Ó lµm viÖc nµy. §ång bµo Dao cã c¸ch thªu rÊt ®éc ®¸o kh«ng thªu theo mÉu vÏ s½n trªn v¶i mµ hoµn toµn dùa vµo trÝ nhí.
+ §an l¸t lµ c«ng viÖc cña ®µn «ng vµ còng ®­îc tiÕn hµnh vµo nh÷ng lóc r¶nh rçi.
+ NghÒ rÌn ®· cã tõ l©u nh­ng kh«ng phæ biÕn vµ kh«ng ph¶i nhãm Dao nµo còng cã. Ng­êi ta kh«ng chØ rÌn ®­îc c¸c n«ng cô nh­: cuèc, cµo, l­ìi cµy, c¸c lo¹i dao mµ cßn rÌn ®­îc sóng ho¶ mai, sóng kÝp, h¹t gang ®Ó lµm ®¹n.
+ NghÒ lµm c¸c ®å trang søc b»ng ®ång hay b»ng b¹c còng ®¸ cã tõ l©u, xong lµng nghÒ gia truyÒn nªn l¹i cµng Ýt ng­êi biÕt h¬n nghÒ rÌn. §å trang søc th­êng ®­îc ch¹m næi hoÆc ®­îc ch¹m ch×m víi nhiÒu m« tÝp kheo lÐo.
+ Ng­êi Dao cßn cã nghÒ lµm giÊy, giÊy cña ®ång bµo s¶n xuÊt kh¸ tèt nªn ®­îc c¸c d©n téc kh¸c kh¸ ­a chuéng nh­: tµy nïng. Nguyªn liÖu chÝnh lµ r¬m r¹, vá c©y d­íng, c¸c lo¹i tre nøa.
+ S¨n b¾n kh«ng chØ lµ mét nguån cung cÊp thªm thøc ¨n mµ cßn lµ biÖn ph¸p b¶o vÖ mïa mµng rÊt cã hiÖu qu¶, ®ång thêi cong lµ mét nguån gi¶i trÝ v« cïng høng thó ®èi víi ng­êi Dao. Vò khÝ s¨n cã sóng ho¶ mai , sóng kÝp, ná tªn th­êng, tªn thuèc ®éc, nay cßn cã sóng s¨n hiÖn ®¹i.

Cã hai h×nh thøc s¨n: s¨n c¸ nh©n vµ s¨n tËp thÓ. Ngoµi s¨n b¾n cßn sö dông rÊt nhiÒu lo¹i bÉy.
+ L©m thæ s¶n lµ mét nguån lîi ®¸ng kÓ. Vµo nh÷ng n¨m mïa mµng bÞ thÊt b¸t, cñ n©u, cñ bÊu, cñ mµi, c¸c thø m¨ng, rau rõng ®· gióp ®ång bµo v­ît qua nh÷ng ngµy thiÕu thèn. Ngoµi ra, cßn thu h¸i nÊm h­¬ng, méc nhÜ, c¸c lo¹i h¹t cã dÇu, khai th¸c gç, tre nøa, c¸c lo¹i d­îc liÖu quý cung cÊp cho vïng ®ång b»ng vµ xuÊt khÈu.



III. Những đặc điểm chính.

A: Văn hoá vật chất:
1.Nhà cửa:
          Người Dao thường sống ở vùng lưng chừng núi hầu khắp các tỉnh miền núi phía Bắc. Tuy nhiên một số nhóm Dao như Dao Quần trắng song ở thung lũng, Dao Đỏ ở núi cao. Thôn xóm phần nhiều phân tán, rải rác năm bảy nóc nhà. Nhà của người Dao rất khác nhau , tuỳ nơi họ ở nhà sàn, nhà trệt hay nhà nửa sàn nửa đất. Kiến trúc nhà người Dao cũng rất phong phú. Loại nhà nửa sàn nửa đất là loại nhà của riêng người Dao, gắn liền với cuộc sống du canh du cư trước đây. Toàn bộ nhà đều làm bằng tranh tre nứa lá, 8 cột cái trong nhà đều làm bằng những cây gỗ quý.
2. Trang phục:
-                     Nam mặc quần áo, trước đây đàn ông để tóc dài, búi sau gáy, xung quanh cạo nhẵn. Các nhóm Dao có cách đội khăn khác nhau. Áo có 2 loại áo ngắn và áo dài.
-                     Phụ nữ Dao mặc rất đa dạng, thường mặc áo dài, yếm, váy, quần áo ngắn hoặc dài và đầu đội khăn. Y phục rất sặc sỡ, hiện vẫn giữ được những nét truyền thống với những hoa văn truyền thống. Họ không thêu theo mẫu vẽ sẵn mà hoàn toàn dựa vào trí nhớ, thêu ở mặt trái của vải để hình nổi lên ở mặt phải. Cách in hoa văn trên vải bằng sáp ong của người Dao rất độc đáo.
3. Phương tiện vận chuyển:
     Người Dao ở vùng cao quen dung địu có hai quai đeo vai, vùng thấp gánh bằng đôi đậu. Túi vải hay túi lưới đeo vai rất được ưa dung.
 4.  Ẩm thực:
-                     Trước đây đồng bào còn thiếu thốn nên thức ăn chỉ thường là măng và rau ít khi có thịt cá. Mặc dù có nuôi nhiều gà, lợn nhưng chỉ dung làm lễ cúng hoặc các dịp tang ma, cưới xin…
-                     Người Dao để dành thịt bằng cách phơi khô hay sấy khói, đặc biệt là món thịt ướp chua có thể để lâu hang chục năm vẫn tốt. Gia vị có: ớt, gừng, lá xả, riềng, hạt dổi, các thứ rau thơm.
-                     Người Dao hay uống rượu. Nước uống hang ngày có chè, nước vối, nước lá rừng có tác dụng như 1 vị thuốc bổ. Người Dao cũng hút thuốc lá, thuốc lào, ăn trầu.
B: Văn hoá tinh thần:
          Ÿ  Tôn giáo tín ngưỡng:
Người Dao có khá nhiều tín ngưỡng tôn giáo có quan hệ đến nông nghiệp. Thường trong khâu sản xuất người ta phải chọn ngày tốt, giờ tốt rất kĩ lưỡng. Lễ cúng thóc giống, lễ cúng nương, lễ cúng vào dịp lập thu, lễ cúng cơm mới là những lễ cúng riêng của từng gia đình. Các lễ cúng chung cho xóm: cầu mưa, bản phương địa chủ.
+ Người Dao cũng thờ cúng tổ tiên như các dân tộc khác. Bàn thờ tổ tiên được xem là nơi tôn nghiêm nhất trong nhà. Đồng bào quan niệm rằng không phải lúc nào tổ tiên cũng ngự tại bàn thờ mà nơi chủ yếu là “ dương châu đại điện”, tổ tiên thường về thăm con cháu ngày mùng 1 và ngày rằm hang tháng.
+ Thờ cúng Bàn Vương- thuỷ tổ của người Dao.
+ Lễ cấp sắc là một tục lệ phổ biến của người Dao, tất cả những người đàn ông Dao đều phải trải qua lễ này(từ 10 tuổi trở lên), cấp sắc là điều bắt buộc. Không được cấp sắc thì không được làm thầy cúng, có cấp sắc mới được các thần thánh công nhận và cấp âm binh, mới có quyền thờ cúng tổ tiên, khi chết mới được về với tổ tiên, mới được xã hội coi là người lớn.
+ Ngôn ngữ:
Họ không có văn tự riêng mà sử dụng chữ Hán đã được Dao hoá gọi là chữ Nôm Dao.
+ Văn nghệ:
-                     Người Dao có một số truyện thơ được ghi lại thành sách bằng chữ Hán còn phổ biến là truyện kể miệng: Hai chị em, yêu tinh, chàng Sùng Siêng…
-                     Họ có vốn văn nghệ dân gian rất phong phú. Đặc biệt là truyện Quả bầu và nạn hồng thuỷ, sự tích Bàn Vương. Múa, nhạc được họ sử dụng trong các nghi lễ tôn giáo.
C: Tổ chức xã hội:
          Trong thôn xóm tồn tại chủ yếu là quan hệ xóm giềng, quan hệ dòng họ. Người Dao có nhiều họ, phổ biến nhất là họ Bàn, Đặng, Triệu. Các dòng họ, chi họ có gia phả riêng và có hệ thống tên đệm để phân biệt giữa những người và các thế hệ khác nhau.
D: Phong tục tập quán:
+ Cưới xin:
          Trai gái muốn được lấy nhau phải xem tuổi, bói chân gà xem có hợp tuổi không. Có tục chăng dây, hát đối đáp giữa nhà trai và nhà gảitước khi vào nhà. Lúc đón dâu, cô dâu được cõng khỏi nhà gái và bước qua cái kéo mà thầy cúng đã làm phép mới được vào nhà trai.
+ Ma chay:
          Thầy Tào có vị trí quản trong trong việc ma và làm chay. Nhà có người chết con cháu đến nhà thầy mời về làm chủ trì các nghi lễ, tìm đất đào huyệt. Người ta kiêng khâm niệm người chết vào giờ sinh của những người trong gia đình. Người chết được khâm niệm trong quan tài để trong nhà hay chỉ bó chiếu ra đến huyệt rồi mới cho vào quan tài. Mộ được đắp đất, xếp đá xung quanh, ở một số nơi có tục hoả tang cho những người chết từ 12 tuổi trở lên. Lễ làm chay cho người chết được làm sau nhiều năm thường được kết hợp với lễ cấp sắc của một người đàn ông nào đó sống trong gia đình.
+ Sinh đẻ:
          Phụ nữ đẻ ngồi, đẻ ngay trong buồng ngủ. Trẻ sơ sinh được tắm bằng nước nóng. Nhà có người ở cữ người ta treo cành lá xanh hay hoa chuối trước cửa để làm dấu không cho người lạ vào nhà vì sợ vía độc ảnh hưởng tới sức khoẻ của đứa trẻ. Trẻ sơ sinh được 3 ngày thì làm lễ cúng mụ.
+ Nhà mới:
 Muốn làm nhà phải xem tuổi những người trong gia đình, nhất là tuổi chủ gia đình. Nghi lễ chọn đất được coi là quan trọng nhất, buổi tối người ta đào một hố to bằng miệng bát, xếp một số hạt gạo tượng trưng cho người, trâu bò, tiền bạc, thóc lúa, tài sản rồi úp bát lên. Dựa vào mộng báo đêm đó mà biết điềm xấu hay tốt. Sáng hôm sau ra xem hố, các hạt gạo vẫn giữ nguyên vị trí là làm nhà được.
  









A.Văn hóa vật chất.

® Dao Đỏ còn gọi là Dao Cooc Ngáng, Dao Sừng, Dao Dụ Lạy (Quế Lâm). Trang phục nữ của họ đặc biệt là đường nhiều màu đỏ, nhiều tua và núm bông đỏ. Trong lễ cưới và trong đám ma chay (cúng Bàn Vương) cô dâu và những người phụ nữ tham dự phải đội một cái mũ rất to. Khung mũ làm gỗ có cắm hai nan tre hay nứa bẻ thành hai góc nhọn nhô ra phía trước, ngoài khung này phủ bằng vải đỏ,
® Dao Quần Chẹt có tên là Dao Sơn Đầu, Dao Tam Đảo, Dao Nga Hoàng. Trước đây phụ nữ Dao Quần Chẹt có tục chải tóc bằng sáp ong có tên là Sơn Đầu. Ở Hòa Bình, Sơn Tây, Phú Thọ, Dao Quần Chẹt có tên là Dao Tam Đảo vì trước khi đến cư trú ở những vùng này họ đã ở chân núi Tam Đảo (Vĩnh Yên). Ở Yên Bái và Tây Bắc họ có tên là Nga Hoàng vì trước họ ở xã Nga Hoàng thuộc huyện Yên Lập tỉnh Phú Thọ.
® Dao Lô Gang còn có tên là Dao Thanh Phán, Dao đội ván, Dao Cooc Mùn, Dao thêu. Ở Tuyên Quang họ có tên là Dao Cooc Mùn bởi những người Dao này nhận rằng trước đây ở Hà – Bắc họ có tên là Thanh Phán, họ mới tới Tuyên Quang được 50-60 năm nay và tên Cooc Mun mới chỉ xuất hiện từ ngày Cách Mạng tháng 8.Hiện nay ở Hà-Bắc những người Dao này có tên là Thanh Phán. Thanh Phán chia ra hai bộ phận Thanh Phán lớn và Thanh phán con, Thanh phán con chỉ giống Thanh phán lớn ở tiếng nói, còn phong tục tập quán cách ăn mặc lại giống người Hoa ở Quảng Ninh. Ở Lạng Sơn họ lại có tên là Lô Gang vì họ vào Việt Nam muộn hơn so với các nhóm khác trong tiếng Dao “lù gang” có nghĩa là đến sau.
® Dao Tiền hay còn gọi là Dao Đeo Tiền, gọi là Dao Đeo Tiền là do ở cổ áo (phía sau gáy) có đính chin đồng tiền. Trang phục nữ khác với mọi nhóm Dao là nữ mặc váy in hoa văn màu xanh nhạt.
® Dao Quần Trắng nhóm này trong “Bình Hoàng Khoán Điệp” gọi là Khố Bạch. Tên gọi này bắt nguồn từ một tục lệ đã có từ lâu trong lễ cưới là  cô dâu phải mặc quần trắng. Trang phục nữ có cái yếm là đặc điểm nổi bật yếm rất to che kín cả phần ngực và phần bụng. Một bộ phận của nhóm này cư trú dọc sông Thao thuộc Yên Bái và Lào Cai  có tên là Dao Họ (tên này chưa rõ ỹ nghĩa). Dao họ này không còn tục cô dâu mặc quần trắng chúng ta nhận ra họ  vốn là Dao Quần Trắng vì họ vẫn mặc yếm như Dao Quần Trắng.
® Dao Thanh Y hay còn gọi là Dao Chàm. Nhóm này có một đặc điểm dễ nhận biết là phụ nữ lúc nào cũng đội một cái mũ nhỏ giống như cái đấu gỗ của người Kinh. Áo thêu hoa văn trang trí hình người đội hoa mà ở các nhóm Dao khác không có.
® Dao Làn  Ti ẻn có tên là Dao Tuyển, Dao Tiển , Dao Áo Dài, Dao Bình Đầu, Dao Slan chỉ (ở Bắc Cạn và Hà Giang.


F Trang phục của các nhóm Dao ở Việt Nam.

I.Trang phục của nhóm Dao Tiền.
1.1Khăn đội đầu.
Phụ nữ Dao Tiền ở Hoà Bình (Đà Đắc): màu chàm dài từ 200 – 210 cm, rộng 40 cm: thêu nhiều họa tiết trang trí, toàn bộ phận trang trí dài 17cm và ngoài cùng là tua dài màu đỏ.
Phụ nữ Dao Tiền ở Bắc Cạn, Tuyên Quang: lại là khăn màu trắng dài từ 120 – 150cm, rộng 30 – 40cm. Hai đầu khăn có hai mảnh hoa văn hình vuông, mỗi cạnh 14cm hay 15cm.
Phụ nữ Dao Đỏ ở Tuyên Quang (Chiêm Hóa) có hai loại: khăn quấn bên trong và khăn phủ bên ngoài. Khăn quấn bên trong bằng vải màu chàm, dài 280 – 300cm, rộng 38 cm. Hai đầu khăn trang trí hoa văn bằng chỉ đỏ và trắng, phần trang trí này rộng 16 cm và băng hoa văn rộng khoảng 8cm chạy dọc chính giữa nối hai đầu khăn. Khăn phủ bên ngoài dài 69cm, rộng 34cm.
1.2 Áo dài.
Phụ nữ Dao Tiền không có áo cánh chỉ có áo dài. Thường ngày người ta chỉ mặc một áo, những ngày hội, tết....mới mặc áo kép ( hai áo lông nhau). Nếu là áo kép áo trong dài hơn áo ngoài, thường để lộ hoa văn dưới gấu.
Áo chỉ dài quá mông một chút. Thân áo được hình thành bởi hai khổ vải dài bằng nhau (140 cm) gấp đôi lại thành thân trước và thân sau. Thân sau từ cổ áo trở xuống hai mép của hai khổ vải được thêu lại với nhau. Còn hai thân trước để rời có nẹp từ cổ áo xuống tới chỗ xẻ tà (khoảng 2/3 chiều dài của áo). Nẹp này thêu bằng chỉ đỏ và trắng. Hai thân trước và sau khâu lại với nhau từ nách tới chỗ xẻ tà. Tay áo là hai khổ vải, mỗi khổ dài 30- 40 cm gấp đôi theo chiều dọc rồi khâu thành một cái ống, một đầu ống đính vào thân áo (không khoét nách). Dưới gấu áo thêu hai hàng họa tiết hình cũi lợn bằng chỉ trắng. Ở cổ áo sau gáy đeo một số đồng tiền thường từ 6 -12 đồng.
Thân sau chỉ khác thân trước là ở chỗ giữa sống lưng và chỗ xẻ tà thêu một cụm họa tiết hình chữ thập ngoặc. Đó là áo của phụ nữ Dao Tiền ở phía Nam còn áo của phụ nữ Dao Tiền ở phía Bắc có khác chút ít.
Áo của phụ nữ Dao Tiền về phía Bắc thường dài hơn áo của phụ nữ Dao Tiền ở phía Nam khác là được thêu nhiều họa tiết hơn. Hai thân trước dưới chân nẹp ngực và nơi xẻ tà, mỗi bên thêu bốn họa tiết hình con chó. Dưới gấu, hai góc cũng thêu hai hình con chó, còn ở giữa là hình hai con chó chung nhau một đầu. Thân sau áo dọc vai thêu họa tiết hình cũi lợn và “chai đát”. Dưới cổ áo nơi đeo những đồng tiền cũng thêu họa tiết “chai đát”. Giữa thân áo ngang thắt lưng có một cụm hoa văn với các họa tiết: hai con chó chung nhau một đầu, hình chữ nhật ngoặc. Dưới cụm hoa văn này là hai họa tiết “cầu kì” hình chữ thập ngoặc biến dạng.
Xung quanh tà áo sau được thêu nhiều đường song song bằng chỉ đỏ vàng xen nhau.
Áo của phụ nữ Dao Tiền ở phía Bắc có thêm một bộ khung bằng bạc. Bộ khung này chủ yếu dùng để trang trí. Mỗi khung là một mảnh bạc hình tròn có đường kính 6-7 cm gọi la “lui cạp”. Bên dưới mỗi mảnh còn đính một cái móc (lui cạp chẩy). Mảnh bạc này ở giữa là hình ngôi sao mười ba cánh, xung quanh ngôi sao này là vòng tròn đồng tâm.
1.3 Yếm.
Phụ nữ Dao Tiền có yếm nhưng ít dùng. Yếm là một vuông vải mộc (30cm x 30cm hay 40cm x 40cm) ngày nay nhiều cô gái mang yếm màu đỏ. Mỗi cạnh của vuông vải ấy được khâu một miếng vải hình tam giác dùng làm cổ yếm (không khoét cổ như yếm của người Việt). Ở hai góc vuông đối nhau của vuông vải đó mỗi bên đính một dải vải dài làm dây buộc.
1.4 Dây lưng.
Dao Tiền có hai kiểu, một kiểu đơn giản dùng hàng ngày đó là sợi dây được tết bằng chỉ bông dài 200 cm, hai đầu tua dài 20 cm.Một kiêu dây khác ít dùng vào thường ngày, dùng cho cô dâu trong ngày cưới và ngày lễ, dây lưng dài 300 – 400 cm, rộng 5- 7 cm dệt bằng chỉ trắng có ba sọc bằng chỉ đỏ hoặc xanh, đầu dây cũng có tua dài.
Ngày thường dây được quấn bên ngoài áo nơi ngay hông một vài vòng còn hai đầu thừa gài vào vòng dây lưng ở hai bên hông, nhưng hơi lệch về phía trước một chút. Ngày hội, lễ đầu dây lưng không thắt bên hông mà buộc mối hai đầu thừa buông thõng trước bụng.
1.5 Váy.
Sự khác biệt với các nhóm Dao khác là phụ nữ Dao Tiền dùng váy in hoa văn bằng sáp ong, váy chàm xẫm, nửa dưới in hoa văn màu xanh lơ. Mép của gấu váy viền vải đỏ. Đây là loại váy quấn (không khâu kín thành cái ống) được chắp bằng sáu khổ vải, mỗi khổ dài 60 cm, rộng 30 – 40 cm. Đầu váy được xếp nhiều nếp và viền bằng vải trắng dùng  làm cạp váy. Hai đầu cạp váy đính hai dải dài dùng làm dây buộc váy.
Chỉ trang  trí hoa văn trên váy. Tính từ trên xuống gấu váy các họa tiết như sau. Trên cùng là băng họa tiết “chùn thộp”. Ngăn cách giữa băng hoa văn này với băng hoa văn hình sóng nước ở dưới là một băng hoa gồm nhiều đường thẳng song song. Băng hoa văn hình sóng nước gồm nhiều lớp họa tiết theo thứ tự: “chùn hèng”- “chùn phây”- “chùn chụn”....
1.6 Xà cạp.
Trước kia phụ nữ Dao Tiền dùng xà cạp nay ít dùng. Xà cạp là một đoạn vải dài từ 100- 120 cm, rộng 15 -20 cm. Xà cạp chừa ra một đoạn vải trắng, chính giữa khoảng trắng này thêu một họa tiết hình chữ thập ngoặc biến thể. Phần còn lại dài suốt từ đầu này đến đầu kia được thêu hoa văn bằng chỉ màu đen với họa tiết: xương cá, hình thoi, đặc biệt là có một băng hình chim.
Xà cạp quấn bắt đầu từ cổ chân đến dần đầu gối. Chiều quấn của hai bên chân ngược chiều nhau tạo sự đăng đối.
2. Lễ phục
2.1Y phục cô dâu.
Ngày cưới cô dâu Dao Tiền mặc áo kép. Áo do cô dâu tự làm. Các khác duy nhất là cô dâu phải đội cái mũ thường ngày không ai được đội. Khung mũ làm bằng tóc phết sáp ong. Trên cái khuy này phủ ba cái khăn hình chữ nhật dài 60 cm, rộng 30 cm.
Toàn bộ mặt khăn thêu bằng chỉ màu. Giữa khăn thêu một ngôi sao tám cánh xung quanh sao là họa tiết hoa lá, chữ thập ngoặc kép, những hình thoi bên trong là hình thoi nhỏ hơn.
3. Bộ nam phục.
3.1. Thường phục.
Khăn dài, khăn hình chữ nhật, áo cánh, áo dài và quần.
3.1.1 Khăn đội đầu.
Đàn ông Dao Tiền hiện nay cắt tóc ngắn để đầu trần hoặc đội khăn. Khăn dài của nam cũng giống như khăn nữ, chỉ khác cách đội: Khi đội người ta gấp đôi khăn theo chiều ngang rồi quấn quanh đầu, hai đầu khăn được buộc lại với nhau. Phía trước trán theo kiểu đầu rìu hay gấp đôi khăn theo chiều dọc vấn quanh đầu nhiều vòng, khăn thừa gài bên trong vành khăn.
3.1.2. Áo.
Áo giống áo người Việt khác là màu chàm.
3.1.3.Quần.
Vận quần chàm cắt theo kiểu chân què cạp lá tọa hoặc cạp luồn dây rút.
3.1.4.Dây lưng.
Giống như của nữ, thường ngày ít dùng.
3.2. Lễ phục.
3.2.1Y phục chú rể.
Chú rể Dao Tiền không có trang phục dành riêng cho ngày cưới, chỉ khác là dùng khăn thêu.
3.2.1.1 Khăn đội đầu.
Chú rể Dao Tiền đội khăn kép, khăn bên trong là khăn dài cũng như khăn nữ. Khăn phủ bên ngoài hình chữ nhật giống như khăn cô dâu.
3.2.1.2.Áo kép.
Trong ngày cưới chú rể Dao Tiền phải mặc áo kép. Áo mặc trong giống như áo mặc thường ngày. Áo mặc ngoài cùng kiểu áo nữ nhưng thêu rất công phu cả thân trước và sau. Phía sau cổ áo còn thêm một chùm bẩy cái khăn vuông nhỏ thêu nhiều họa tiết bằng chỉ đỏ và trắng. Thân trước ít được trang trí bằng thân sau. Gấu áo thêu bốn họa tiết chữ thập ngoặc kép.
Thân sau trang trí nhiều, dọc sống lưng có một cái cột hoa văn chạy suốt từ cổ áo tới gấu áo. Cột hoa văn này có hai họa tiết chính là hình chó và hình con cừu thêu bằng chỉ đỏ và trắng. Hai bên cột hoa văn  ngang với nơi xẻ tà mỗi bên thêu một sao tám cánh bằng chỉ đỏ. Giữa sao là một khung vuông thêu chỉ trắng. Dưới gấu áo thêu rất nhiều nhưng chỉ với hai họa tiết: hình chữ thập ngoặc đơn hay chữ thập ngoặc kép bằng chỉ đỏ và trắng.
3.3 Y phục thầy cúng.
Vào ngày lễ cấp sắc, chẩu đàng... thầy cúng đóng vai trò quan trọng trong khi hành lễ. Mặc bộ ngày thường không ai được dùng kể cả thầy cúng.
3.3.1Mũ.
Làm bằng vải mộc phết sáp ong nên ngả màu nâu trông giống như cái bồ đài. Phía sau gáy, mũ được đính hai cánh buồm. Trong khi hành lễ bên ngoài mũ còn được phủ một tờ giấy bản có vẽ hình người.
3.3.2Áo
Thầy cúng Dao Tiền mặc thêm một áo dài. Áo này thường rất dài thường chầm mắt cá chân, màu chàm không trang trí hoa văn. Áo mở ngực, nẹp có liền với nẹp ngực. Thân áo gồm hai phần, phần trên dài 50 cm rộng 70 cm, phần dưới dài 80 cm rộng 170 cm.
3.3.3 Dây lưng.
Hai đầu dây lưng thêu một số họa tiết như đường gấp khúc liên tiếp, cành lá, những khung vuông đồng tâm đều bằng chỉ trắng và còn đính nhiều chuỗi làm bằng bông.
3.3.3.1Váy.
Trong khi hành lễ thầy cúng Dao Tiền còn phải mặc thêm váy, váy màu chàm không có hoa văn in bằng sáp ong mà chỉ thêu ở dưới gấu những họa tiết hình chữ thập ngoặc.
4. Y phục trẻ em.
Y phục trẻ em Dao Tiền về kiểu cắt may không khác gì y phục người lớn trang trí hoa văn ít hơn, thêu những họa tiết đơn giản. Ngày nay trẻ em Dao Tiền ăn vận giống như trẻ em người Việt.
5. Đồ trang sức.
Làm bằng bạc hay đồng.
Dùng hạt cườm, có người đeo hàng chục chiếc vòng cổ, vòng tay cũng vậy.
Bông tai có nhiều kiểu.
Nhẫn có người đeo hàng chục chiếc, mỗi ngón đeo 2-3 nhẫn. Dao Tiền ở phía Bắc có khuy bạc đính ở nẹp ngực.
II. Nhóm Dao Đỏ.
Nhóm Dao Đỏ thuộc nhóm Đại Bản, cư trú chủ yếu ở Yên Bái, Lào Cai, Lai Châu, Tuyên Quang, Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Kạn.
1.Bộ nữ phục.
1.1 Khăn đội đầu.
Phụ nữ Dao Đỏ ở Tuyên Quang (Chiêm Hóa) có hai loại: khăn quấn bên trong và khăn phủ bên ngoài. Khăn quấn bên trong bằng vải màu chàm, dài 280 – 300cm, rộng 38 cm. Hai đầu khăn trang trí hoa văn bằng chỉ đỏ và trắng, phần trang trí này rộng 16 cm và băng hoa văn rộng khoảng 8cm chạy dọc chính giữa nối hai đầu khăn. Khăn phủ bên ngoài dài 69cm, rộng 34cm.
Phụ nữ Dao Đỏ ở Bát Xát – Lào Cai có hai loại khăn vuông và khăn dài. Khăn vuông bằng vải đỏ mỗi chiều dài 100cm, không có hoa văn. Khăn dài bằng vải đỏ dài 120cm, rộng 64cm, xung quanh mép khăn thêu bằng chỉ đen và chỉ trắng. Bốn góc khăn có đính các chùm tua và còn thêm một đoạn dây dài 30cm, đầu dây đính nhiều quả bông đỏ.
Phụ nữ Dao Đỏ ở Bắc Cạn (Chợ Đồn) có hai loại: khăn quấn bên trong bằng vải chàm dài 348cm, rộng 18cm đầu và mép khăn viền bằng vải đỏ. Khăn phủ bên ngoài bằng vải chàm, dài 90cm, rộng 8cm thêu kín các họa tiết trang trí ở hai đầu khăn đính tua bằng vải trắng, đỏ, xanh, vàng. Trong ngày cưới cô dâu quấn một chiếc khung bằng tre bên trên phủ khăn thêu hoa văn trang trí nhưng nay đã được thay bằng một chiếc khăn dài 100cm, rộng 80cm, bằng vải hoa Trung Quốc viền xung quanh. Phía trong khăn được trang trí hoa văn theo kiểu đắp vải và ngoài cùng đính tua chỉ màu đỏ.
Phụ nữ Dao Đỏ ở Hoàng Su Phì (Hà Giang) có khác Dao Đỏ ở Lào Cai một chút ít: khi quấn bên trong bằng vải chàm hay đen, dài 155cm, rộng 12cm, toàn bộ mặt khăn thêu kín các họa tiết trang trí bằng chỉ màu trắng, xanh và đỏ.
Khăn phủ bên ngoài cũng bằng vải chàm hay đen, dài 182cm, rộng 23cm thêu hoa văn giống bên trong. Trong ngày cưới cô dâu quấn khăn giống cô dâu Dao Đỏ ở Lào Cai nhưng khăn đỏ nay được thay bằng vải hoa Trung Quốc.
1.2Áo.
Áo của phụ nữ Dao Đỏ ở Tuyên Quang là áo dài màu chàm. Áo chỉ được trang trí ở nẹp ở nẹp cổ áo. Áo tứ thân không khoét nách tay đấu thẳng vào thân. Nẹp cổ liền với nẹp ngực, nẹp này làm bằng vải đỏ, nẹp phía trong thêu những đường đơn giản bằng chỉ màu trắng. Mép ngoài đính nhiều quả bông đỏ.
Áo phụ nữ Dao Đỏ ở Lào Cai khác hơn: Áo tứ thân dài 128 cm, rộng 64 cm, nẹp cổ liền với nẹp ngực. Nẹp cổ là một băng hoa văn dài 98 cn, rộng 8 cm. Phần nẹp cổ ở thân bên phải dài hơn ở thân bên trái 16 cm. Nẹp cổ ở chính giữa thêu một băng họa tiết hình vuông nối tiếp nhau. Nẹp ngực áo còn đính thêm tám mảnh bạc hình chữ nhật. Dưới vạt của hai thân trái thêu nhiều họa tiết trang trí. Tính từ mép gấu trở lên sát với đường viền gấu là băng hình hoa đại to, tiếp theo là các họa tiết hình chân mèo, hình sấm....Nẹp trong của cửa tay áo, hai bên thân đáp bằng vải màu đỏ.
Khi mặc, thân áo trước bên phải vắt chéo qua thân bên trái, hai vạt này vòng chéo ra sau lưng rồi buộc ở đây.
Phụ nữ Dao Đỏ ở Bắc Kạn: hàng ngàylà áo dài màu chàm, khoét nách, cổ cao, có hò, cài khuy bên nách phải. Nẹp hò và cửa tay áo rất to bằng vải khác màu, được coi là tiếp thu của người Nùng. Áo cổ truyền của họ dùng trong dịp lễ tết.
Phụ nữ Dao Đỏ ở Hà Giang (Hoàng Su Phì) : áo dài màu chàm hoặc đen, không khoét nách. Nẹp cổ liền với nẹp ngực, dài 40 cm rộng 5 cm thêu kín các họa tiết bằng chỉ đỏ, trắng và vàng. Mép ngoài của cái nẹp này đính nhiều túm bông giống như những bông cúc nhỏ màu đỏ. Hai đầu của nẹp ngực đính nhiều chuỗi hạt cườm và tua đỏ. Cửa tay và nẹp xung quanh tà áo trước và sau đều được thêu bằng chỉ đỏ và trắng. Đó chính là áo của phụ nữ Dao Đỏ ở Hoàng Su Phì còn áo phụ nữ Dao Đỏ ở Quản Bạ khác: vẫn là áo dài màu chàm hoặc đen nhưng tay áo là nhiều khoanh vải khác màu can lại với nhau giống như tay áo của người Mông nhận ra là phụ nữ Dao Đỏ nhờ cái nẹp ngực áo- giống nẹp ngực áo của phụ nữ Dao Đỏ ở Hoàng Su Phì.
1.3 Yếm.
Dao Đỏ gọi là “lùn ton” nghĩa là áo con.
Yếm của phụ nữ Dao Đỏ ở Tuyên Quang: là một đoạn vải màu chàm dài 147 cm rộng 36 cm, sau dài 39 cm, giữa đường gấp này người ta khoét một lỗ tròn đường kính 13 cm, cổ yếm cao 3 cm bằng vải đỏ, xung quanh đính 16 ngôi sao 8 cánh.
Ở Lào Cai huyện Bát Xát không có yếm.
Phụ nữ Dao Đỏ ở Hà Giang: cũng có áo con như Dao Đỏ ở Tuyên Quang nhưng đơn giản hơn,
Phụ nữ Dao Đỏ ở Bắc Kạn: khá giống với người Dao Đỏ ở Tuyên Quang.
1.4 Dây lưng.
Phụ nữ Dao Đỏ ở Tuyên Quang: bằng vải màu đỏ, dài 430 cm, rộng8 cm. Dây lưng của phụ nữ Dao Đỏ ở Hà Giang bằng vải đỏ nhưng ngắn hơn và hẹp hơn, dài 8cm, rộng 32 cm.
Dao Đỏ ở Bát Xát không có dây lưng mà dùng hai thân áo trước thay cho thắt lưng.
Phụ nữ Dao Đỏ ở Bắc Kạn: dùng dây lưng màu chàm dài 370 – 400 cm, rộng 20 cm. Dây được thêu nhiều họa tiết bằng chỉ trắng, đỏ, vàng.
1.5 Quần.
Phụ nữ Dao Đỏ ở Tuyên Quang: màu chàm, cắt theo kiểu bổ đũng, cạp luồn dây rút. Quần dài 70 cm, rộng 29 cm, đũng cao 30 cm. Mỗi bên ống quần có một mảng hoa văn. Mảng hoa văn này được thêu sẵn khi may quần thì đáp thêm vào.
Phụ nữ Dao Đỏ ở Lào Cai: cũng màu chàm cắt theo kiểu chân què cạp lá tọa , dài 88cm, ống rộng 28 cm, đũng cao 28 cm. Hai ống quần mỗi bên đáp một mảng hoa văn nhưng thêu đơn giản hơn người Dao ở Tuyên Quang.
Phụ nữ Dao Đỏ ở Hà Giang: màu chàm cắt theo kiểu chân què cạp lát tọa, dài 74 cm, ống rộng 25 cm, đũng cao 30 cm.
Phụ nữ Dao Đỏ ỏ Bắc Kạn: màu chàm, cắt theo kiểu bổ đũng dài80 cm, rộng 35cm. Hai ống quần nối một đoạn hoa văn thêu sẵn.
1.6 Xà cạp.
Phụ nữ Dao Đỏ ở 4 địa phương đều có xà cạp.
Phụ nữ Dao Đỏ ỏ Lào Cai vải trắng, dài 270 cm, rộng 15 cm. Một đầu xà cạp thêu một số họa tiết: hình hoa ghép, hình chữ nhất thập ngoặc kẹp, quấn từ cổ chân lên gần đầu gối, chiều cuốn hai chân đối nhau.
Dao Đỏ ở Hà Giang: bằng vải trắng dài 337cm rộng 10 cm, một đầu có hình vuông trang trí gần giống xà cạp của phụ nữ Dao Đỏ ở Lào Cai.
Dao Đỏ ở Bắc Kạn : bằng vải trắng một đầu xà cạp chừa lại một đoạn vải trắng còn thêu kín các họa tiết trang trí bằng chỉ đen và đỏ.
2. Lễ phục.
2.1 Y phục cô dâu.
Khác với ngày thường là cô dâu thêm một cái mũ và tạp dề. Riêng cô dâu Dao Đỏ ở Bắc Kạn thêm một cái người ta gọi là “chầu vầy”.
2.1.1 Mũ cô dâu.
Cô dâu Dao Đỏ ở Lào Cai khung làm bằng tre, ngoài phủ bằng ba cái khăn. Hai khăn phủ bên dưới bằng vải đỏ không chỉ che kín mặt mà còn buông xuống hai vai. Khăn phủ bên trên hình chữ nhật dài 83 cm rộng 40 cm mặt khăn thêu kín các họa tiết trang trí. Trên chỏm mũ đính nhiều chuỗi dây bằng bạc.
Dao Đỏ ở Hà Giang: cũng phải đội mũ nhưng khung mũ cấu tạo khác Dao Đỏ ở Lào Cai. Hai khăn đỏ phủ ở lớp dưới nay thay bằng vải hoa màu xanh.
Khung mũ của cô dâu Bắc Cạn giống khung mũ của cô dâu Hà Giang nhưng phủ ra bên ngoài khung này là một cái khăn thêu, mép khăn đính nhiều tua vải bằng màu đỏ.
3. Nam phục.
3.1. Khăn.
Là khăn thêu của nữ, thường ngày ít dùng người ta để đầu trần hoặc đội mũ nồi.
3.2 Áo.
Áo của nam Dao Đỏ ở Tuyên Quang, Hà Giang màu chàm hay đen không khoét nách, tay đấu thẳng vào thân, cổ tròn, mở ngực. Diềm của mảnh vải này thêu bằng chỉ đỏ và trắng (Tuyên Quang), thêu kín các họa tiết trang trí(Hoàng Su Phì). Mảnh vải này gọi là “pến” hay “tầm pến”.
Tay áo Dao Đỏ ở Lào Cai không có hoa văn trang trí còn tay áo của Dao Đỏ ở Tuyên Quang thêu hoa văn đến gần nửa ống tay áo.
3.3. Quần.
Màu chàm hay đen  cắt theo kiểu quần nữ (quần chân què, quần can đũng cạp lá tọa hay luồn dây rút.
3.4 Lễ phục.
3.4.1 Y phục chú rể.
Chú rể Dao Đỏ mặc quần áo như ngày thường nhưng đội thêm một cái khăn thêu của nữ (Tuyên Quang, Hà Giang, Bắc Kạn) hoặc vận quần áo nữ như cô dâu (Lào Cai).
3.4.2 Y phục thầy cúng.
Thầy cúng Dao Đỏ ở Tuyên Quang đội khăn thêu và thêm một chiếc khăn đỏ. Đội khăn người ta quấn thêm một dây buộc ra ngoài khăn. Ngoài cùng quấn thêm một cái khăn dài màu đỏ.
Áo thầy cúng Dao Đỏ ở Tuyên Quang là áo tứ thân nẹp cổ liền nẹp ngực giống áo nữ nhưng là màu đỏ  và không có hoa văn trang trí. Ngoài eo còn quấn thêm một dây lưng bằng vải trắng.
Dao Đỏ ở Hà Giang: cũng đội khăn thêu và đeo dây lưng giống như thầy cúng Dao Đỏ ở Tuyên Quang.
Áo thầy cúng ở Bắc Kạn ngoài cái khăn thêu thầy cúng còn có thêm mũ.
4. Y phục trẻ em.
Ăn vận theo kiểu cổ truyền chủ yếu là ở mũ và áo.
III. Dao Áo Dài.
Thuộc nhóm Làn tiẻn hay còn gọi là Dao Chàm.
Yên Bái là Dao Đen.
Lào Cai là Dao Tuyển.
Bắc Cạn là Dao Slán chỉ.
2. Bộ nữ phục.
2.1.1 Khăn đội đầu.
Phụ nữ Dao Áo Dài ở Tuyên Quang ( Hàm Yên) có hai loại: khăn đội đầu một loại khăn dệt bằng chỉ trắng, hình chữ nhật, dài 36 cm, rộng 13 cm,  hai đầu để tua dài 108 cm. Khăn nền trắng, hoa văn trang trí bằng chỉ đen, có khăn còn điểm thêm vài đường chỉ đỏ. Hoa tiết đơn giản, chủ yếu là đường gấp khúc và đường “ răng cưa”. Một loại khăn khác hình chữ nhật dài 50 cm, rộng 40 cm bằng vải màu đen mép khăn về phía trước mặt đính một dải buộc dệt bằng chỉ màu còn diềm hai bên đáp bằng vải đỏ khăn dùng cho người trung niên. Trong ngày cưới cô dâu Dao Áo Dài còn đội phủ nên một chiếc khăn vuông màu đỏ rộng 40 cm, xung quanh diềm được đính nhiều chùm tua bằng chỉ đỏ, xanh và tím.
2.1.2 Áo.
Khá dài so với nhiều nhóm Dao khác. Áo bằng vải sợi thô nhuộm chàm hay đen. Áo khoét nách cổ tròn, có hò cài khuy về bên tay phải khuy áo bằng đồng gần bằng hạt ngô. Vạt áo thân trước và sau không thẳng lòe ra và rất cong, trông giống như cái lưỡi búa. Nẹp bên trong cổ áo cửa tay, thân và gấu được đáp bằng vải đỏ hay xanh. Cổ hay được đính hai chùm tua dài bằng chỉ đỏ và trắng.
2.1.3 Dây lưng.
Có hai loại:
Một loại chỉ là một dải vải màu đỏ hay trắng dài 215 cm, rộng 10 cm dùng hàng ngày.
Một loại dây lưng ít dùng hơn chủ yếu dùng cho các cô gái trẻ. Dây lưng cũng là một dải vải màu đỏ, dài 78 cm rộng 3 cm chạy suốt chiều dài của vải, còn được đính những mảnh bạc
2.1.4. Quần.
Dài màu chàm, cắt theo kiểu can đũng giống như quần của các nhóm Dao khác.
2.5 Xà cạp.
Bằng vải trắng, khâu thành một cái ống một đầu to một đầu nhỏ. Đầu nhỏ thêu hình vuông bằng chỉ đỏ, vàng và đen.
2.2 Lễ phục.
2.2.1.Trang phục cô dâu.
Quần áo không khác ngày thường, cái khác là cái mũ, cái khăn vuông màu đỏ và một số trang sức bằng bạc, những dải vải đeo sau cổ mà ngày thường không ai đeo.
2.2.2. Mũ cô dâu.
Hai bộ phận: cái đế ở dưới và cái nắp đậy ở trên. Cốt mũ bằng sáp ong. Cái đế hình tròn đường kính 17,5 cm xung quanh gài nhiều mảnh bạc, cái nọ chờm lên cái kia.
Nắp đậy ở trên có đường kính 15 cm mặt hơi lồi. Trên mặt của cái nắp này được phủ kín bằng một mảnh bạc trên đó khắc ngôi sao 10 cánh, bên trong lại khắc ngôi sao 10 cánh.
Hai bộ phận mũ có thể tách rời nhau (Lào Cai, Hà Giang) dính lại với nhau ở Tuyên Quang. Sau khi đội xong người ta trùm ra ngoài mũ bằng một cái khăn màu đỏ, xung quanh đính nhiều chùm tua màu đỏ, xanh, tím. Cuối cùng lấy dây chằng để khăn bám chắc vào mũ.
Cô dâu còn phải đeo ở cổ áo sau gáy một chùm những dải vải chấm gấu áo màu đỏ, xanh trắng, ngoài ra đeo đồ trang sức bằng bạc.
3. Nam phục.
Thường phục : khăn đội đầu, áo dài và quần
3.1 Khăn đội đầu.
Bằng sợi vải thô màu chàm hoặc đen, dài 280 cm, rộng 30- 40 cm. Khi đội người ta gấp khăn làm bốn theo chiều dọc rồi quấn lên đầu nhiều vòng, đầu cùng của khăn cài vào vành khăn.
3.2. Áo.
Áo dài màu chàm hay đen dài tới ngay đùi hay chấm gối. Áo khoét nách cổ tròn và có hò, khuy cài về phía nách phải. Tà áo loe rộng và cong rất giống áo nữ, không có hoa văn trang trí.
3.3 Quần.
Thường màu chàm nay nhiều người mặc quần đen, cắt theo kiểu can đũng hay chân què, cạp lá tọa, nay thường bằng cạp dây rút. Cái khác chủ yếu với quần nữ là gấu của ống quần không có viền.
3.4 Lễ phục.
3.4.1 Y phục chú rể.
Không có y phục riêng dành cho ngày cưới, khác với ngày thường là cái khăn thêu quàng qua cổ (Tuyên Quang) hay đeo thêm một cái túi đựng tiền, cổ đeo thêm một số chuỗi hạt cườm (Lào Cai).
3.4.2Y phục thầy cúng.
Giống như thầy cúng ở các nhóm Dao khác thầy cúng Dao Áo Dài cũng có: mũ, áo dài đỏ, áo thêu rồng dành riêng cho ngày hành lễ.
Thầy cúng Dao Áo Dài (Dao Tuyển) ở Lào Cai còn đeo mặt nạ bằng gỗ.
4. Y phục trẻ em.
Một số ăn vận theo cổ truyền, phổ biến là ăn vận giống  trẻ em Việt, nhiều em đội thêm một cái mũ do chính bà hoặc mẹ đan , mũ được đính nhiều mảnh bạc nhỏ hình tròn.
5. Trang sức
Ít dùng đồ trang sức’
Màu sắc chủ yếu là màu chàm và màu đen, đỏ là phụ, hiếm thấy màu xanh lá cây hay màu vàng.
IV. Dao Thanh Y.
Thuộc nhóm Làn Tiẻn.
Cư trú ở : Tuyên Quang, Bắc Giang và Quảng Ninh.
Thường phục: mũ,khăn đội đầu, áo dài, yếm, dây lưng, quần dài, quần ngắn và xà cạp.
1. Bộ nữ phục.
1.1 Mũ.
Phụ nữ Dao Thanh Y để tóc dài, rẽ ngôi đầu, vấn tóc xung quanh đầu rồi đội một cái mũ hình nón cụt trông giống như cái đấu nhỏ. Đáy dưới của mũ hình chóp có đường kính 14 cm, đáy trên 12cm, chiều cao từ 4 -10 cm. Cốt mũ làm bằng xơ mướp (Tuyên Quang) sợi gai hay sợi dây sắn rừng ( Quảng Ninh). Bên ngoài cốt mũ phủ một lớp chỉ đen. Thành mũ của một bộ phận Dao Thanh Y ở Quảng Ninh ( xã Hải Lạng, tỉnh Tiên Yên) rất thấp chỉ bằng một nửa hay ba phần năm thành mũ của Dao Thanh Y ở nơi khác. Đỉnh mũ phẳng được gắn một ngôi sao 10 cánh bằng bạc có đường kính 5 – 6 cm. Tâm của ngôi sao có một núm như núm vú, người ta còn gài nhiều mảnh bạc hình tròn có đường kính 2 cm trông giống như vỏ hến, cái nọ liền với cái kia tạo thành 2 lớp song song  chạy xung quanh thành mũ. Trường hợp Dao Thanh Y ở Hải Lạng thành mũ thấp lên những mảnh bạc này cài chờm lên nhau.
1.2 Khăn đội đầu.
Phụ nữ Dao Thanh Y ở Quảng Ninh, Bắc Giang (Sơn Đông) đội mũ nhưng lại phủ lên mũ một chiếc khăn vuông. Khăn vuông làm bằng vải trắng mỗi chiều dài 40 cm. Từ phần diềm còn lại toàn bộ mặt khăn được thêu kín các họa tiết trang trí bằng chỉ đen và đỏ. Ở giữa mặt khăn trong một khung hình vuông có một ngôi sao 8 cánh xung quanh các hính sao này là họa tiết: Chữ thập ngoặc và chữ Hán như “ sinh  - bảo – mệnh – trường”, “ thọ - tỉ - nam  - sơn”......Hai góc khăn đối nhau đính nhiều chuỗi cườm, đầu mỗi chuỗi là các chùm tua bằng chỉ đỏ.
1.3. Áo dài.
Áo dài của phụ nữ Dao Thanh Y may kiểu tay rộng, có đáp khoanh vải đỏ rộng khoảng 15 cm ở cửa tay. Cổ áo tròn, thấp thêu hình chữ vạn và đã có sự phân biệt với nẹp ngực. Hai thân trước so le, thân bên phải ngắn thân bên trái dài, nẹp trong của mỗi thân đều là vải đỏ. Áo không có khuy khi mặc thân dài vắt chéo lên thân ngắn rồi ngoài buộc dây lưng.
Ở phía trước ngực áo có trang trí hoa văn , còn hầu hết hoa văn được trang trí ở phía sau lưng áo. Hai bên bả vai, lưng áo có thêu hình người dang chân, tay, trên đầu đội sao 8 cánh biến thể hay chữ thập ngoặc. Suốt dọc đường viền gấu áo thêu hoa văn hình cây và chim xen kẽ nhau.
1.4.Quần.
Quần của Dao Thanh Y cũng giống như các nhóm Dao khác cắt theo kiểu chân què, ống hẹp và gấu không thêu hoa.
Ở vùng Tuyên Quang, cô dâu Dao Thanh Y  bên ngoài mặc quần áo chàm thêu hoa, nhưng lót bên trong bộ áo ấy là chiếc áo dài và chiếc quần trắng. Chiếc quần trắng ở đây phải chăng là dấu nối cùng với các bộ phận y phục khác thít chặt quan hệ thân thuộc giữa hai ngành Quần Trắng và Thanh Y. Áo bên trong may cắt như áo chàm mặc ngoài, song không thêu hoa, cưới xong cởi ra, đến chết mớ vận vào cho người chết rồi mới khâm liêm.
Quần của phụ nữ Dao Thanh Y ở Quảng Ninh và Bắc Giang là quần màu chàm hoặc đen cẳt theo kiểu chân què cạp lá tọa. Giống như các nhóm khác, nhưng quần của phụ nữ hai địa phương này lại vắt ngắn giống như quần đùi, quần dài 40 hoặc ngắn hơn tùy người cao thấp. Ống rộng 24 cm, đũng dài 25 cm. Phụ nữ Dao Thanh Y ở Bắc Giang trước đây cũng mặc quần đùi nhưng dài hơn một chút so với phụ nữ Dao Thanh Y ở Quảng Ninh.
1.5.Yếm.
Yếm của phụ nữ Dao Thanh Y hình vuông, mỗi chiều dài 30cm, bằng vải màu chàm. Nửa bên kia của yếm đáp vải đỏ, đen và mảnh hoa văn được thêu sẵn.
1.6.Dây lưng.
Dệt bằng chỉ đỏ pha chỉ đen và trắng dài 180 cm -200 cm, rộng 5-7 cm, hai đầu có tua dài. Cách thắt lưng cũng có sự khác nhau: có nơi người ta gấp đôi dây lưng, hai đầu bắt chéo nhau trước bụng, đầu thừa dắt vào bên hông. Có nơi dây lưng được buộc mối ở bên hông.
1.7. Xà cạp.
Làm bằng vải chàm không có hoa văn trang trí. Xà cạp là một đoạn vải dài 135 cm, rộng 16 cm. Dây buộc xà cạp dệt bằng chỉ có các hoa tiết đơn giản, dài 40 cm, rộng 2 cm, một đầu dây được đính các chuỗi hạt cườm và có tua dài.
2.Lễ phục.
2.1.Y phục cô dâu.
Ăn vận như ngày thường nhưng chỉ khác là đeo thêm ở cổ hai cái khăn vuông thêu hoa văn bằng chỉ đỏ và đen. Ngoài ra cô dâu quấn thêm một dây lưng đặc biệt ngày thường không ai được dùng. Dây lưng bằng vải trắng thêu những ô vuông trong đó có chữ thập ngoặc và một số chữ Hán.
3.Bộ nam phục.
3.1.Thường phục.
Giờ đây những người đàn ông Dao Thanh Y không còn giữ được bộ trang phục cổ truyền của mình, mà họ ăn vận giống nông dân người Việt: cũng áo cánh, quần cắt theo kiểu chân què, khác chỉ là màu chàm hoặc đen.
3.2.Lễ phục.
3.2.1.Y phục chú rể.
Không khác gì so với ngày thường cái khác chủ yếu là chú rể quấn thêm một chiếc dây lưng của nữ.
3.2.2.Y phục thầy cúng.
Y phục thầy cúng Dao Thanh Y nào cũng có: mũ, khăn, áo dài tay màu đỏ, áo ngắn tay thêu rồng.
3.2.2.1.Khăn.
Khăn bằng vải trắng dài 300cm, rộng 20 cm. Hai đầu khăn thêu nhiều họa tiết khác nhau bằng chỉ đỏ, xanh và vàng. Đầu khăn đính nhiều dải vải màu đỏ và đen. Những họa tiết trang trí ở đầu khăn tính từ đầu khăn  trở vào: các họa tiết trang trí đều nằm trong các băng ngang là họa tiết hình sao tám cánh, hình người, hình hoa lá, vạch dọc ngắn song song đó là khăn của thầy cúng Dao Thanh Y ở Quảng Ninh. Còn thầy cúng ở Bắc Giang họa tiết có khác đôi chút.
Khăn này có nơi  người ta quấn lên đầu vài vòng, còn đầu thừa của khăn bỏ ra sau lưng. Có nơi người ta chỉ vắt khăn qua cổ, hai đầu thừa bỏ xuống trước ngực.
3.2.2.2.Mũ (mặt nạ).
Là những bức tranh chân dung các vị thần vẽ trên tấm giấy bồi hình chữ nhật (30 cmx 25 cm). Mũ được buộc ra bên ngoài khăn.
3.2.2.3.Áo dài.
Có hai kiểu áo dài: Áo mặc trong màu xanh, hay đỏ, cổ cứng có hò. Còn áo mặc ngoài, cổ tròn xẻ cộc tay. Áo màu xanh, nẹp cổ nẹp thân và tà đáp vải đỏ, thân trước thêu hình rồng, thân sau thêu hình cá, rùa, hổ.
4.Y phục trẻ em.
Hiện nay trẻ em Dao Thanh Y ăn vận giống trẻ em người Việt ở nông thôn. Những em gái thường được đội một cái mũ vải được thêu khá công phu.
5.Đồ trang sức và hoa văn trang trí.
Đồ trang sức làm bằng bạc, ít so với các nhóm Dao khác về số lượng cũng như chủng loại.
Màu sắc của hoa văn chủ yếu là màu đen, đỏ. Họa tiết trang trí là hình sao tám cánh, hình người, hình hoa lá....đặc biệt là có hình chữ Hán.
V. Dao Quần Trắng.
Dao Quần Trắng thuộc nhóm Khố Bạch vào Việt Nam khá sớm (thế kỉ XIII). Trong Bình Hoàng khoán điệp gọi nhóm Dao này là “Khố Bạch Mạn”.
Ngày thường phụ nữ Dao Quần Trắng mặc áo chàm, quần chàm trên áo có thêu hoa văn, ngoài ra họ còn thắt lưng và đội khăn vuông chàm thêu hoa. Khi đi làm hoặc trong ngày hội hè, phụ nữ còn quấn xà cạp bằng loại vải cùng màu.

1.Bộ nữ phục.
1.1.Khăn.
Phụ nữ Dao Quần Trắng để tóc dài cuốn lên đỉnh đầu, đội mũ giống Dao Thanh Y. Ngày nay họ để tóc dài rẽ ngôi giữa búi sau gáy và bao giờ cũng trùm ra ngoài chiếc khăn vuông nhuộm chàm. Trung bình mỗi chiều dài khăn từ 45 cm- 50 cm, xung quanh mép viền vải đỏ, trắng thêu nhiều hoa văn hình sao, hoa, lọng ngựa...
Có hai cách đội khăn: Về mùa đông hay khi đi làm họ để nguyên khăn trùm trên đầu. Khi đi chơi, người ta gấp chéo khăn hai lần rồi bịt khăn quanh đầu để lộ phần thêu hoa ra ngoài.
Phụ nữ Dao Quần Trắng ở Tuyên Quang (Yên Sơn) là một vuông vải chàm (40 cm x 40 cm) thêu nhiều họa tiết trang trí. Mép khăn được viền bằng vải trắng và đỏ với từng đoạn ngắn xen nhau chính giữa khăn thêu một ngôi sao 8 cánh. Từ ngôi sao này có các tia ra 4 góc khăn kết với 4 ngôi sao khác có kích thước nhỏ hơn. Kẹp giữa các ngôi sao này là nhưng ngôi sao nhỏ hơn. Các ngôi sao thêu bằng chỉ đỏ và vàng. Đỉnh một góc khăn đính một dải buộc dệt bằng chỉ đen và đỏ.
1.2.Mũ.
Phụ nữ Dao Quần Trắng Tuyên Quang ( Hàm Yên) cũng sử dụng mũ nhưng cho cô dâu trong ngày cưới, ngày thường không sử dụng. Mũ trông giống như một cái “bồ đài” dài 28 cm, rộng 19 cm, xung quanh mũ làm bằng xơ mướp, bên ngoài lợp vải đen. Ngày nay, có mũ ngoài lớp vải đen còn được phủ một lớp vải màn nhuộm màu đỏ. Sống mũ võng xuống nên hai chỏm nhô lên giống như hai cái sừng. Mỗi chỏm mũ đính 1 chùm chỉ màu đỏ và vàng. Hai bên thành mũ đính nhiều mảnh bạc hình bán cầu, hình sao 7 cánh và cùng hình sao như vậy nhưng trong 1 vòng tròn. Vành mũ đáp 1 băng hoa văn dệt bằng chỉ nhiều màu.
1.3. Áo.
Vẫn là kiểu áo chàm may xẻ ngực hai vạt dài xuống đầu gối giống như các nhóm Dao khác nhưng thêu ít hơn.
Áo không có cổ mà chỉ có những đường chỉ màu đen, đỏ trắng, vàng, bằng ngón tay viền quanh. Nẹp áo được viền thêm vải màu đỏ và trắng đối lập nhau, nẹp bên trái trắng thì nẹp bên phải đỏ và ngược lại. Đường viền bên trong to hơn đường viền bên ngoài rộng khoảng 2- 4 cm. Đây là đặc điểm độc đáo của nữ phục Dao Quần Trắng.
Vạt áo liền một mảng từ lưng áo ra phía vạt trước nên áo không bao giờ có  đường chỉ chắp vá cầu vai.Ở vạt trước có thêu bốn nhóm, mỗi nhóm có ba hình ngừoi. Giữa lưng có thêu hình hoa tám cánh hay chữ thập ngoặc. Nách áo xẻ dài tới thắt lưng, mép đường xẻ được viền vải đỏ, trắng cuối đường xẻ thêu hoa văn hình cây, sao 8 cánh, thập ngoặc....Dọc theo hai tay, qua vai thêu hai hàng “chân rết”.
1.4. Quần.
Quần của phụ nữ Dao Quần Trắng cũng may kiểu chân què cạp lá tọa, ống hẹp gấu to. Ngày xưa phụ nữ Dao Quần Trắng mặc váy chàm thêu hoa, họ mới mặc quần cách đây 50 -60 năm. Đến nay , chiếc váy chỉ còn lại dấu vết ở người phụ nữ đi lấy chồng choàng váy ra ngoài chiếc quần trắng.
1.5. Yếm.
Yếm khá to, dài khoảng 60 cm, rộng 40 cm, phần trên móc vào vòng đeo yếm ở cổ, gấu yếm dài tận bẹn vì thế người ta che kín cả ngực và bụng bằng yếm.
Yếm có hai phần: phần trên hình thang cân, trang trí hoa văn thêu, phần dưới pàn nhận, hình chữ nhật có hoa văn dệt bằng chỉ đen và đỏ. Ở các mép nhất là hai bên sườn và gấu yếm chắp vải màu đỏ xen kẽ nhau. Hoa văn trên yếm thường là: sao 8 cánh, chữ thập ngoặc, ô vuông, quả trám, hình công cụ.
1.6.Dây lưng.
Là một dải vải dệt bằng chỉ đỏ, trắng, vàng và đen, dài 180 cm, rộng 5 cm, hai đầu để tua dài.
1.7.Xà cạp
.Xà cạp  may theo hình cờ đuôi nheo bằng vải chàm có khâu cúc ở mép để cài vào nhau khi quấn vào chân, hoặc dùng dây dệt hoa, có tua màu ở hai đầu để buộc xà cạp cho chặt.
1.8 Lễ phục.
Trong ngày cưới cô dâu Quần Trắng ăn mặc không khác ngày thường lắm, chỉ dùng những đồ mới, thêu nhiều hoa văn đẹp hơn. Đặc biệt là có chiếc quần trắng, chiếc mũ lưới...và một số đồ phụ khác như: giày vải đỏ, khăn tay hoa, quạt hoa..
2.Lễ phục.
2.1.Y phục cô dâu.
Trong ngày làm lễ cưới của cô dâu phải mặc quần trắng và bên ngoài mặc thêm một cái váy. Ngoài ra đội thêm một cái mũ ngày thường không ai được đội. Cổ quấn những dải vải dài màu đỏ và trắng, tay cầm một cái khăn thêu.
Cô dâu Dao Họ ăn vận đơn giản không khác gi ngày thường.
2.1.1.Mũ cô dâu.
Giống như một cái bồ đài. Xương mũ làm bằng xơ mướp, bên ngoài lợp vải đen, ngày nay phủ một lớp vải màu nhuộm màu đỏ. Sống mũ võng xuống lên hai chỏm mũ giống như hai cái sừng. Mỗi chỏm mũ đính một chùm chỉ đỏ và vàng. Hai bên thành mũ gắn nhiều mảnh bạc hình bán cầu, hình ngôi sao 7 cánh...
Vành mũ đáp một băng hoa văn dệt bằng chỉ nhiều màu. Khi đội mũ tóc cô dâu phải quấn quanh đầu và đội mũ ra ngoài hai chỏm mũ quay về hai bên đầu.
2.1.2.Khăn vuông (đeo sau cổ áo cô dâu).
Khăn vuông màu trắng, mép khăn thêu viền bằng chỉ đỏ. Giữa khăn thêu một hình ngôi sao tám cánh tỏa tia ra bốn hình sao ở bốn góc, xung quanh ngôi sao ở trung tâm có nhiều họa tiết khác: hình người, hình ngựa, hình cây...
2.1.3.Váy.
Thuộc loại váy hở màu chàm, không có hoa văn trang trí. Cạp váy màu xanh, mép và gấu váy viền chỉ đỏ và xanh, nẹp bên trong bằng vải đỏ.
3.1.4.Y phục phù dâu.
Mặc quần áo giống như cô dâu nhưng khác không mặc thêm váy và đội mũ khác cô dâu.
3.a.Bộ nam phục.
Gồm có: khăn đội đầu, áo ngắn và quần.
3.1.Khăn đội đầu.
Là một đoạn vải dài 145 cm, rộng 30 cm chàm hoặc đen. Khi đội người ta gấp khăn làm ba theo chiều dọc rồi quấn quanh đầu từ trái qua phải, đầu khăn thừa gài vào trong vành khăn nhưng nay ít người dùng.
3.2. Áo.
Áo cánh giống áo của người Việt ở nông thôn trước đây cái khác là màu chàm.
3.3.Quần.
Cắt theo kiểu can đũng giống như quần của nữ hay theo kiểu chân què cạp lá tọa thay bằng cạp luồn dây rút.
3.b.Lễ phục.
3.1.Y phục chú rể.
Y phục có khăn đội đầu, áo dài, dây lưng, quần trắng đeo nhiều đồ trang sức. Riêng chú rể Dao Họ không dùng dây lưng nhưng tay phải cầm một cái khăn thêu.
3.1.1. Khăn đội đầu.
Khăn dùng trong thường ngày.
3.1.2.Áo dài.
Áo dài của chú rể màu chàm hoặc đen, áo năm thân, cổ cao, có hò, cài khuy về nách phải.
3.1.3.Dây lưng.
Nhiều sợi dây dài 150 cm màu vàng và đỏ chập lại với nhau. Dây lưng ngoài áo, hai đầu vắt chéo nhau trước bụng, phần đầu thừa gài ở hai bên hông.
3.1.4.Quần.
Dao Họ và Dao Quần Trắng đều mặc quần trắng cắt theo kiểu can đũng hay kiểu chân què không khác gì quần mặc thường ngày.
3.1.5.Khăn tay chú rể.
Chú rể Dao Họ trong khi đón dâu phải cầm một cái khăn màu trắng khoảng hai vuông vải, thêu một số họa tiết trang trí bằng chỉ đỏ và xanh. Ngoài các họa tiết quen thuộc người ta còn thêu hình người, hình hai con gà trống đang chọi nhau.
3.2.Y phục thầy cúng.
Gồm có: mũ, khăn đội đầu, áo dài ngắn tay, áo dài không có tay.
3.2.1.Khăn.
Khăn bằng vải trắng dài 250 cm, rộng 40 cm, chính giữa khăn thêu một họa tiết hình sao tám cánh bằng chỉ đỏ và đen. Hai đầu khăn là một mảng hoa văn với các băng ngang trong đó có các họa tiết: sao tám cánh, hình cây, hình chữ thọ. Đầu khăn đính nhiều tua dài bằng chỉ đỏ, vàng, đen.
Khăn đội gấp đôi theo chiều ngang rồi phủ lên đầu, hai đầu khăn bỏ về phía sau gáy. Phần khăn ở phía trước vặn xoắn với nhau rồi tách làm đôi kéo vòng sang hai bên đầu buộc mối ở phía sau gáy.
3.2.2.Mũ.
Làm bằng giấy bồi, bên ngoài bọc vải đen, mũ hình vòng cung. Phía trên nhô lên 5 mũi nhọn tựa như 5 mỏm núi (hai mặt thành mũ thêu hình Tam Thanh : Ngọc Thạch ở giữa, Thái Thanh bên phải và Thượng Thanh bên trái) Hai mặt cạnh thêu hình con phượng, chữ thọ. Khi đội mũ hình Tam Thanh về phía trước mặt.
3.2.3.Áo.
Có hai loại:
Áo ngắn tay: màu đỏ, cổ tròn cao 3cm, khoét nách, xẻ tà.Áo dài 57 cm, rộng 56 cm tay áo dài 16 cm.
Áo không có tay: màu chàm dài 115 cm, rộng 92 cm, mở ngực không cài khuy. Cổ áo, nẹp ngực, nẹp tà và gấu đáp vải đỏ. Hai thân trước thêu hình rồng, mây, người cưỡi ngựa. Thân sau thêu hình người, hình chữ thập bằng chỉ màu xanh và vàng.
4.Y phục trẻ em
Trước đây và hiện nay các em nhỏ chủ yếu là em gái đều mặc bộ đồ cổ truyền giống người lớn không có y phục riêng.
5.Đồ trang sức và hoa văn trang trí.
Đồ trang sức bằng bạc là chủ yếu, gần đây mới có trang sức bằng vàng.
Phụ nữ hầu như ai cũng có: vòng cổ, vòng tay, và nhẫn. Ngoài ra còn có bông tai và xà tích.
Màu đen, đỏ, vàng, xanh ít hơn.
Họa tiết chủ yếu là hình sao tám cánh.
Đặc biệt là họa tiết hai con gà trống chọi nhau không thấy ở nhóm Dao khác.

VI.Dao Quần Chẹt.
1.Bộ nữ phục.
1.1.Khăn.
Phụ nữ Dao Quần Chẹt cắt tóc ngắn, chải sáp ong, đội khăn dài màu chàm. Cách đội khăn nói chung giống như người Dao Đỏ nhưng cũng có người vấn thành hình “cái sừng tròn” trên đỉnh đầu, hơi nghiêng về bên phải hoặc bên trái.
Phụ nữ Dao Quần Chẹt ở Hòa Bình (Đà Đắc) có hai loại: loại1 khăn không có hoa văn trang trí : khăn là một đoạn vải dài 180cm, rộng30cm màu chàm.
Loại 2: khăn có hoa văn trang trí, khăn này quần ngoài khăn nói trên dài 120 cm, rộng 30 cm. Hai đầu khăn thêu ba băng hoa văn theo chiều ngang. Phần hoa văn này rộng 30 cm chính giữa thêu một miếng hoa văn hình vuông.
Ngày cưới cô dâu đội thêm trên đầu một chiếc khăn vuông màu chàm dài 43 cm, rộng 40 cm.
1.2. Áo.
Người Dao Quần Chẹt cũng mặc áo dài chàm gần giống áo của người Dao Đỏ, song các hình thêu ít hơn, ngực áo cũng không đính núm bông hay len đỏ ở phần nẹp. Hai cửa tay áo được đáp bằng vải đỏ, phần gấu áo ít thêu, đáp thêm những miếng vải vuông trắng, đỏ hoặc bằng vải hoa. Sau lưng áo cũng có thêu “cái ấn của Bàn Vương”.
1.3. Quần.
Cắt theo kiểu chân què. Ống hẹp bó sát chân dài dưới gối khoảng 1-2cm . Độ doãng của quần khá lớn. Hoa văn thêu chủ yếu ở gấu quần, mô típ chủ đạo là: hình lá cây, các đường thẳng song song, vạch chéo...
1.4. Yếm.
Được trang trí nhiều nhất, đó là miếng vải nhuộm chàm, thêu khá tỉ mỉ nhiều loại hoa văn bằng chỉ màu, ở phần cổ. Giữa yếm đính thêm hai bán cầu hay hai ngôi sao bằng bạc rộng khoảng 5-6 cm.
1.5. Dây lưng.
Bằng vải chàm hay bằng lụa đỏ màu cánh sen... dài 360 cm, rộng30 cm ( khoảng 12 vuông vải) không có hoa văn trang trí.
Sau khi mặc áo người ta quấn dây lưng ra bên ngoài quanh một vài vòng, hai đầu dây lưng buộc ở sau lưng, đầu thừa luồn qua vòng bụng ở hai bên hông rồi bỏ thọng xuống ngang đồi gối
Phụ nữ Dao Quần Chẹt có thói quen, khi đi đường hay lao đồng để cho khỏi vướng người ta kéo một góc của vạt thân áo sau gài vào vòng dây lưng ở bên hông trái do vậy đầu dây lưng thường bị che khuất.
1.6. Xà tích.
Bằng vải trắng không thêu hoa văn trang trí. Một đoạn vải dài 80cm , rộng 30 cm gấp theo chiều dọc rồi dọc thành hai cái xà cạp hình đuôi nheo. Mép dọc viền bằng chỉ đỏ khỏi tuột sợi, mang xà cạp người ta đặt đầu to của nó vào cổ chân quấn ngược lên đầu gối rồi lấy dây buộc lại, hai chân quấn đối nhau.
2.Lễ phục.
2.1.Y phục cô dâu.
Trước khi cưới một, hai năm cô dâu Dao Quần Chẹt chuẩn bị cho mình một vài bộ quần áo mới, không khác ngày thường có khác là thêu công phu hơn, chỉ đẹp hơn.
Trong bộ đồ cưới còn có một cái khăn thêu.
2.1.1Khăn đội đầu.
Bằng vải chàm hình gần vuông (40cmx42cm) toàn bộ mặt khăn thêu kín họa tiết trang trí bằng nhiều màu.Mép khăn trước đính một hàng quả bông trắng, đỏ, vàng xen nhau. Mép khăn hai bên đáp vải đỏ và trắng, mép khăn về phía sau đáp vải đen.
Phù dâu thường chỉ đội khăn thêu, còn cô dâu phủ thêm một miếng vải đỏ.
3.Nam phục.
Gồm có: khăn đội đầu, áo cánh, quần.
3.1Y phục chú rể.
Khác với ngày thường là ở cái áo hai túi có thêm nhiều hoa văn trang trí và cái khăn giống khăn thêu của nữ.
Áo màu chàm, cổ đứng, có 3 túi, 1 trên hai dưới. Mặt các túi thêu nhiều hoa văn trang trí, túi trên nhỏ hơn túi dưới, miệng túi đáp vải đỏ. Giữa các mặt túi thêu một hình sao tám cánh nằm trong một cái khung vuông gồm các đường chỉ trắng đỏ, xanh, vàng, xung quanh viền này là họa tiết sao tám cánh, hình lá.
3.2.Y phục thầy cúng.
Phức tạp gồm có: mũ (các kiểu), áo dài có tay, áo dài không tay, dây buộc ngoài mũ, dây lưng, váy và xà cạp.
3.2.1.Mũ.
Hai loại:  mũ hình hộp chữ nhật, hình thang cân lộn ngược.
3.2.2.Dây buộc mũ.
Dài 210 cm, rộng 5 cm, màu đỏ, mỗi bên đầu nối thêm một đoạn vải dài màu đen, dài 28cm, rộng 5 cm.
3.2.3.Áo dài.
Thầy cùng khi hành lễ thường mặc áo dài nữ hay còn mặc thêm hai kiểu áo nữ.
Áo mặc ngoài áo nữ màu hồng dài tay, cắt theo kiểu áo năm thân, cổ cao, có hò, giống như áo dài của người Việt.
Áo mặc ngoài áo này cũng là áo dài nhưng không có tay, thân áo nửa dưới loe rộng, cổ cao, xẻ ngực chui đầu.
3.2.4.Dây lưng.
Có hai loại:
-                     Một loại dệt bằng chỉ trắng có sọc ngang màu xám nhạt, hai đầu có tua dài, dài 230 cm, rộng 24 cm.
-                     Một loại dây khác công phu hơn: dài 213cm, rộng 4cm dệt bằng chỉ màu đỏ lẫn chỉ đen và trắng. Dây lưng này thêm hai chùm khăn vuông nhỏ mỗi chùm sáu khăn (16cmx16cm.

3.2.5.Váy.
Váy hở màu chàm ghép bằng bẩy khổ vải (60cmx30cm). Đầu váy xếp nhiều nếp nhỏ được đính vào một cái cạp bằng vải đỏ, hai đầu thừa của cạp khá dài dùng làm dây buộc. Gấu váy viền bằng chỉ đỏ, trắng. Bên ngoài đường viền này có một số họa tiết: chữ thập ngoặc, hoa lá, chim...
3.2.6.Xà cạp.
Vải màu trắng dài 130 cm, rộng 30 cm (dọc đôi theo chiều dọc thành hai xà cạp, họa tiết hình chim không giống ở cổ áo, váy ở bất kì bộ phận nào.
4.Y phục trẻ em.
Trẻ em ba tuổi chỉ mặc áo không có quần.
Từ 5-6 tuổi được ăn vận giống người lớn chỉ khác quần áo được trang trí ít hơn. Trẻ nhỏ được đội một cái mũ ghép bằng 6 miếng vải hình tam giác, một đen một trắng xen nhau.
5.Đồ trang sức và hoa văn trang trí.
Người Dao Quần Chẹt dùng nhiều đồ trang sức bằng bạc, đồng có vòng cổ, vòng tay, vòng chân, nhẫn còn đeo thêm xà tích. Bộ xà tích thường có bốn sợi tết bằng nhiều sợi bạc nhỏ dài 40 cm.Trẻ nhỏ dùng đồ trang sức để kị gió đỡ bị cảm.
Hoa văn trang trí: hình chữ thập ngoặc đôi hoặc kép, hình sao 8 cánh...

VII. Dao Thanh Phán.
1.Bộ nữ phục.
1.1.Khăn đội đầu.
Phụ nữ Dao Thanh Phán Quảng Ninh (Hoành Bồ) và Dao Cóc mùn ở Tuyên Quang là khăn dài dài 200 cm, rộng 30 cm màu chàm không có hoa văn trang trí.
Phụ nữ Dao Thanh Phán ở Tiên Yên và Quảng Hà cũng là khăn dài nhưng màu trắng quấn trùm lên một cái mũ. Ngày cưới cô dâu Dao Thanh Phán ở Hoành Bồ cũng đội thêm trên đầu một chiếc khăn thêu giống như khăn thêu của cô dâu Quần Chẹt.
Ngày cưới cô dâu Thanh Phán ở Bắc Giang (Sơn Đông) lại đội chiếc khăn hình chữ nhật dài 52 cm, rộng 41cm, bằng vải chàm có trang trí hoa văn và chính giữa có ba vòng tròn đồng tâm làm bằng cách đính các sợi hạt cườm, ở đầu của một sợi đều có tua bằng chỉ đỏ. Khăn này được phủ trùm lên mũ.
1.2. Áo.
Áo dài của phụ nữ Dao Lô Gang giống áo dài của phụ nữ Dao Quần Chẹt, nhưng được thêu rất nhiều hoa văn: hình sao hình sóng nước, cây thông, chữ thập ngoặc... trên thân áo nhất là phần nẹp, cổ. Người Dao Lô Gang, cũng chú trọng chiếc yếm của mình. Yếm được thêu nhiều mô típ hoa văn, điểm thêm các ngôi sao bạc làm sáng bừng cả bộ nữ phục.
Điểm nổi bật của y phục của phụ nữ Dao Thanh Phán là cách trang trí nhiều mô típ hoa văn hơn nữ phục các nhóm khác, nó thể hiện cách thêu là chủ yếu, dệt hoa văn là phụ.
1.3.Yếm.
Vải màu chàm mỗi chiều dài khoảng 30-40cm, một góc của vuông vải này là cổ yếm. Cổ yếm liền với dải buộc bằng vuông vải màu đỏ. Hai góc đối của thân yếm đính dải vải đỏ buộc ra sau lưng.
Thân yếm ở giữa có một mảng hoa văn hình chữ nhật (20cmx12cm) bằng chỉ vàng trắng.
1.4. Dây lưng.
Bằng vải mộc hoặc lụa màu, dài khoảng 250-300cm, rộng 15-30 cm, nay nhiều cô gái dùng dây lưng bằng vải in hoa.
1.5Xà cạp.
Trên nền vải trắng, hình quả trám, hình sao tám cánh, hình thú vật, hình hoa...
2.Lễ phục.
2.1.Y phục cô dâu.
Cái khác trong ngày cưới cô dâu đội cái khăn thêu phủ ra bên ngoài khăn đội hàng ngày.
3.Nam phục.
Chủ yếu giống người Việt, riêng Dao Lô Gang còn giữ được bộ y phục giống như Dao Đỏ ở Quản Bạ (Hà Giang).
3.1.Y phục chú rể.
Chú rể Dao Thanh Phán ở Bắc Giang đầu đội khăn thêu và mặc áo cánh hai thân trước có hoa văn trang trí.
3.1.1.Khăn đội đầu.
Màu chàm hình tam giác toàn bộ mặt khăn được thêu kín các họa tiết bằng chỉ đỏ và xanh.Trung tâm là thêu hình sao tám cánh và hình “lá cây”. Góc đỉnh của khăn đính nhiều chuỗi hạt cườm, đầu mỗi chuỗi là một túm chỉ màu đỏ.
Hai góc đáy của khăn đính dải buộc.
3.1.2.Áo cánh.
Dao Thanh Phán ở Bắc Giang là áo cánh cổ cao, cài khuy trước ngực, xung quanh cổ áo, cánh tay và ngực vạt áo thêu nhiều họa tiết trang trí bằng chỉ màu vàng, đỏ và xanh.
3.2.Y phục thầy cúng.
Khá giống nhau ở các địa phương.
Dao Thanh Phán ở Quảng Ninh giống y phục Dao Quần Chẹt gồm có: mũ, khăn đội đầu, dây buộc mũ, áo dài, váy và xà cạp.
3.2.1.Mũ.
Có hai loại:
Mũ hình hộp và mũ chỉ là một mảnh giấy bồi hình thang lộn ngược và có nhiều hình vẽ bằng sơn màu.
3.2.2.Khăn đội đầu.
Vuông vải màu chàm, mỗi cạnh 30 cm, toàn bộ mặt thêu kín các họa tiết trang trí trừ ô vuông ở giữa. Bên ngoài còn bốn vòng hoa văn khác nhau. Họa tiết của ô vuông trung tâm là hình chữ thập ngoặc kép.
Vòng 1: tính từ ô trung tâm là “tồm xổng”.
Vòng 2: là “qua nghim”.
Vòng 3: họa tiết vòng một.
Vòng 4: họa tiết vòng hai.
Khi đội người ta gấp chéo khăn thành hình tam giác, khăn được dắt ra phía sau gáy. Góc nhọn quay lên trên, dải buộc được quấn vào mũ ở phía trước mặt.
3.2.3.Dây buộc mũ.
Bằng vải đỏ và xanh dài 210 cm, rộng 5 cm.
3.2.4. Áo của thầy cúng.
Thường mặc 2 hoặc 3 áo lồng nhau.
Áo trong cùng là áo nữ.
Áo thứ 2  màu đỏ, hay hồng, áo này là áo tứ thân, cổ tròn, xẻ ngực, tay lửng.
3.2.5.Váy.
Váy màu chàm theo kiểu váy tấm (không khâu thành một cái ống) gồm 6 hoặc 8 bức khâu thành một tấm. Đầu váy xếp nhiều ly khâu vào một cái cạp.
3.2.6.Xà cạp.
Một băng vải màu trắng dài 150 cm, rộng 15 cm (5 vuông vải khổ rộng 30 cm xé làm đôi). Mép bị dọc và một đầu của xà cạp viền bằng vải đỏ. Họa tiết là 5 hình chữ thập ngoặc kép, một ở giữa, bốn ở bốn góc. Còn dọc thân xà cạp có 4 băng với các họa tiết khác nhau.
4. Y phục trẻ em.
Giống với người Việt cùng địa phương.
Song y phục cổ truyền vẫn được các em gái ưa dùng, nhất là ở lứa tuổi học sinh PTCS
5. Đồ trang sức và hoa văn trang trí.
Nam giới hầu như không dùng trang sức.
Trang sức của nữ bằng bạc nhưng ít về số lượng chủ yếu là dùng chuỗi hạt cườm và các màu sắc khác nhau.
Hoa văn trang trí chữ thập ngoặc đơn và kép, hình người...đặc biệt là có hình cái bừa. Dao Thanh Phán ít dùng họa tiết hình sao 8 cánh, một họa tiết phổ biến ở các nhóm Dao khác.

F Nhà ở của các nhóm dân tộc Dao.


I. Làng xóm:
Người Dao có hai loại hình cư trú là cư trú tập trung và cư trú phân tán. Sự khác biệt này do điều kiện canh tác và thế đất nơi cư trú. Tuy nhiên đến nay một số nơi điệu kiện canh tác và cảnh quan đã thay đổi nhưng người ta vẫn giữ nếp sống cũ.
Loại hình cư trú phân tán, làng xóm kiểu này thấy rõ nhất những nhóm Dao chuyên sống bằng nương rẫy du canh như: Dao Quần Chẹt, Dao Đỏ, Dao Thanh Y. Mỗi điểm tụ cư chỉ mươi nóc nhà, nhà nọ cách nhà kia khá xa, có khi vài kilomet. Sự kết hợp các hộ trong các cư điểm khá lỏng lẻo vì nhà phải chạy theo nương rẫy.
Loại hình cư trú tập trung phổ biến ở những nhóm Dao đã định cư. Đặc biệt là nhóm Dao Tiền, nhà nọ liền kề nhà kia. Các nơi các nhà trong làng còn có số như đường phố.
Dù với loại hình cư trú nào, ở độ cao nào đối với người Dao cũng cần có những điều kiện nhất định: nơi khuất gió, cao ráo, gần nguồn nước, có bãi để chăn nuôi, gần rừng để kiếm chất đốt và rừng còn là nguồn thực phẩm tự nhiên ( măng rau, củ, tôm,cá, chim muông) gần bà con thân thích. Một trong những điều kiện được coi là quan trọng nhất là nguồn cung cấp nước, có khả năng đưa nước về tận nhà ít nhất là về tới xóm.



























II. Nhà cửa:
Dao là một trong những dân tộc có các loại hình nhà ở: nhà đất, nhà nửa sàn – nửa đất và nhà sàn. Song không phải ở bất cứ nhóm Dao nào cũng có đủ ba loại hình nhà như vậy.
Dù là loại hình nhà nào thì vật liệu xây dựng chính là thảo mộc (tranh, tre, gỗ, dây rừng...) Những vật liệu kiếm tại nơi cư trú.
Dụng cụ được dùng trong việc làm nhà khá đơn giản. Trước đây với nhà ngoãm, công cụ chủ yếu là cái rìu, con rựa quen thuộc với công việc làm nương. Gần đây đồng bào có thêm các loại cưa, đục, bào. Giống như các đồng bào khác, người Dao có thợ chuyên làm nhà. Mà mỗi khi có ai làm nhà mới thì bà con lối xóm tới giúp đỡ nên hoàn thành công việc rất nhanh. Với người Dao trong việc làm nhà đặc biệt là người Dao Tiền, phụ nữ cũng có thể làm được những công việc dành cho đàn ông: cưa, bào, đục...
 Kết cấu bộ khung nhà:
Bộ khung của nhà người Dao dù là nhà đất, nhà nửa sàn – nửa đất, hay nhà sàn cũng đều hình thành trên cơ sỏ các vì kèo.
-                     Vì kèo hai cột.
-                     Vì kèo bốn cột.
1.Nhà đất..
Loại hình nhà đất có từ lâu đời, phổ biến ở người Dao đã định canh hay người dao chuyên làm ruộng nước.Bộ sườn nhà đơn giản ,thường có 3- 5 gian, không có chái.






















Sơ đồ nhà đất của nười Dao Tiền-Hào Tráng- Hà Đắc-Hoà Bình










2.Loại hình nhà sàn.
Loại hình nhà này phổ biến ở người Dao đã làm ruộng nước và sống gần người Tày, Nùng...nhà thường được xây ở chân núi, gò thấp .











Mặt bằng sinh hoạt nhà sàn người Dao Làn Tèn ở Hồng Quang-Tuyên Quang










3.Nhà nửa sàn- nửa đất
Loại hình nhà này phần lớn ở những người Dao sống du canh,thường cu trú trên nền đất dốc. Loại nhà này không phải bỏ nhiều công sức để làm. Bộ sườn nhà loại này còn đợn giản hơn nhà đất.











Sơ đồ nhà nửa sàn- nửa đất của người Dao Đỏ- khe Bá-Phú Thuận-Bảo Thắng-Lào Cai.



























                                             Nhà người Dao ở Lai Châu









         




         
         

Nhà nửa sản nửa đất
 
 



Một số tục lệ liên quan đến việc làm nhà mới.
Cũng như nhiều cư dân khác, người Dao coi việc xây cất nhà mới như là một sự kiện quan trọng trong đời sống. Cho nên từ khi tìm kiếm vật liệu đến khi làm xong ngôi nhà người ta phải thực hiện khá nhiều qui định mà ai cũng phải theo.
Muốn làm nhà mới người ta phải nhờ thầy cúng xem tuổi những người trong nhà, nhất là chủ gia đình có hợp hay không. Nếu không được, lại phải chờ năm khác. Chọn được năm rồi, lại phải chọn ngày tốt để lên rừng kiếm vật liệu. Từ nhà tới rừng người ta cũng phải kiêng cữ: nếu nghe thấy hoãng kêu, cây đổ trước lối đi, con rắn chạy qua đường lại phải quay về chờ ngày khác. Gỗ dùng làm cột nhà phải là cây gỗ thắng có đủ ngọn, cành lá xum xê, không có dây leo quấn thân cây mới được lấy.
Khi đã chuẩn bị đủ nguyên vật liệu, chủ nhà phải chọn ngày tốt để tìm địa điểm dựng nhà. Chập tối chủ nhà lặng lẽ đến mảnh đất định chọn để làm nghi lễ chọn đất. Đào một cái hố nhỏ, nện chặt đáy và thành hố rồi đặt vào đó một số hạt gạo hay thóc tượng trưng cho người, gia súc, tiền của, thóc gạo, tổ tiên... rồi lấy cái bát úp lên trên cái hố đó. Đêm nằm mộng xem điềm tốt, xấu. Nếu thấy lửa cháy, nước lần chảy về nhà, cây cối hoa quả trĩu cành... là điềm tốt. Nếu thấy cây đổ, đất lở, nhà đổ hoặc thấy có nhiều hố đào trên bãi đất ấy là điềm xấu. Nếu được điềm tốt, sáng sớm hôm sau người chủ nhà ra xem, nếu thấy cái bát úp trên miệng hố không bị xê dịch và các hạt gạo dưới hố vẫn nguyên vị trí cũ thì mảnh đất đó được làm nền nhà. Ở một số nhóm Dao lại có cách chọn đất khác. Khi đã tìm được một địa điểm nào đó vừa ý, chủ nhà chọn ngày tốt làm lễ, khấn tổ tiên, nói rõ địa hình địa vật nơi đó rồi chờ qua đêm nằm mộng. Không có mộng hoặc mộng được điềm tốt thì tiến hành các bước tiếp theo. Chờ một ngày tốt, chủ nhà đến mảnh đất định chọn dùng dao nạo sạch một mảnh đất nhỏ có diện tích bằng miệng cái bát to, nện đất chỗ đó cho thật chặt rồi cắm hai que nứa chéo nhau giống như hình dấu nhân ở giữa miếng đất đó. Sáng hôm sau ra thăm nếu không thấy kiến làm tổ, không thấy dấu chân con gì đi qua miếng đất đó là được.
Riêng người Dao Tiền có cách chọn đất khá độc đáo: được ngày tốt, chủ nhà đến miếng đất định chọn làm lễ cúng thần đất và gia tiên rồi lấy một quả trứng gà viết một số hàng chữ dạng chữ Hán phát âm tiếng Dao xung quanh tượng trưng cho người, gia súc, tài sản, tổ tiên...Sau đó đục ở đầu nhỏ của quả trứng một lỗ rồi hơ quả trứng đó lên lửa để trứng sôi làm cho lòng trắng trào ra ngoài. Nếu trứng trào ra mà không trúng vào dòng chữ nào là điềm tốt. Nếu trứng vào hàng chữ nào đó thì điềm ấy bị phạm không tốt. Nếu trứng vào chữ “người” thì người trong gia đình sẽ gặp ốm đau, chết chóc. Nếu trứng vào chữ “gia súc” thì không chăn nuôi được. Nếu vậy người ta lại phải tìm nơi khác.
Một số nhóm Dao sống gần người Tày, Nùng hoặc người Việt khi làm nhà mới người ta phải nhờ thầy “địa lí” xem tuổi và tìm hướng nhà.
Tìm được đất dựng nhà nhưng hướng nhà cũng rất quan trọng. Riêng người Dao Quần Trắng mỗi họ lại có hướng nhà riêng: họ Tưởng là tấy-bắc, họ Lí là đông nam, họ Vi là hướng đông.
Người Dao rất kiêng kị làm nhà nối tiếp nhau mà đòn dóng cùng trên một đường thẳng. Nếu muốn vậy thì các nhà phải liền lại với nhau như một nhà dài. Khi nhà dựng chưa xong hoặc xong rồi nhưng chưa làm lễ lên nhà mới mà nghe thấy tiếng sấm thì phải dỡ ra chờ đến một ngày tốt dựng lại.
Trong khi làm lễ lên nhà mới nghe thấy tiếng hoãng kêu cũng là điềm không tốt, khiến cho gia đình chủ luôn luôn lo sợ thường người ta cúng để giải sui.
Nhà đã làm xong, tìm ngày giờ tốt lên nhà mới. Nghi lễ được tiến hành như sau: một bà già người trong họ hay người hàng xóm nhưng phải là vợ chồng song toàn đông con nhiều cháu cầm bó đuốc đi trước, theo sau là chủ nhà và các thành viên khác trong gia đình đem theo bàn thờ tổ tiên và một số thứ tượng trưng như là: cây mía, cây chuối, cum thóc, một vài bắp ngô, một ống nước để cầu mong sự sinh sôi, sung túc.
Bà già nhóm bếp xong thì gọi to “nhà mới đã xong xin mời tổ tiên cùng con cháu vào nhà để làm lễ khánh thành”. Sau đó bà quét nhà để “tống táng” rác rưởi cho nhà luôn được sạch sẽ. Tiếp đó người ta làm thịt hai con gà, một con để cúng thổ công, một để cúng gia tiên. Những nghi thức này hoàn tất thì mời bà con dân làng tới dự cùng liên hoan.
Theo những người già Dao Tiền, Dao Đỏ... ở một số nơi cho biết thì người Dao ở nhà đất đã rất lâu đời. Vì rằng có ở nhà đất thì mới có chỗ để cúng Bàn Vương (ông thủy tổ của người Dao).

III.Văn hóa ẩm thực.
1. Nguồn lương thực và thực phẩm.
Là thức ăn có tinh bột chế biến từ lúa (lúa nương, lúa tẻ, lúa nếp…)từ ngô, từ sắn có loại củ vừa là lương thực vừa là thực phẩm như khoai sọ, khoai tây; một số lương thực phụ như kê, mạch…, - một số củ rừng như: củ mài, ruột cây đao…
Cũng như các dân tộc khác người Dao thường ăn hai bữa chính vào buổi trưa và buổi tối trong ngày bữa trưa vào khoảng 11-12h, bữa tối vào khoản 20-21h. Vào dịp mùa màng mệt nhọc, bận rộn thì có thêm bữa ăn sáng ăn cơm nắm hay ăn cơm lam. Người Dao thích ăn gạo lúa nương nhất vì nó vừa thơm vừa dẻo. Cách chế biến từ lúa ra gạo phải qua các khâu xay, giã, giần, sàng. Cách thức nấu cơm tẻ và xôi cơm nếp cũng giống như của người Kinh. Đồng bào thích ăn loại xôi có nhiều màu sắc: trắng, đỏ, xanh, tím, vàng. Để tạo mầu đồng bào chia gạo đồ xôi thành bốn phần và ngâm mỗi phần vào một thứ nước khác nhau. Chẳng hạn phải ngâm gạo nếp vào nước cây “năng làm pình” (mầu đỏ), ngâm gạo vào nước tro rơm nếp hòa nước cây “năng làm móng” (có hạt gạo màu tím” ;ngâm gạo vào nước cây “năng làm méng”  (ra gạo màu xanh) và ngâm gạo vào nước nghệ để có màu vàng. Xếp từng lượt gạo vào chõ, gạo trắng trên cùng rồi đồ. Khi xôi chín, đánh đều sẽ được thứ xôi nhiều màu sắc. Cháo, cơm lam cũng là món ăn được đồng bào Dao ưa thích.
Các  loại thực phẩm rất phong phú:
- Nguồn thực phẩm từ trồng trọt: phổ biến là rau cải, bầu, bí đỏ, bí xanh, susu, cải bắp…
- Nguồn thực phẩm từ chăn nuôi: trâu, bò, dê, gà…
- Người Dao còn tổ chức săn bắt các loại chim thú hoang dã (gà rừng, lợn hươu, nai, chim, sóc…đánh cá suối, bắt ốc,hến, các loại rau quả như: rau dớn, trứng kiến, măng rừng…
- Trong bữa ăn đồng bào sử dụng các loại gia vị: hành, tỏi, ớt, nghệ, hạt tiêu, chanh …
- Bổ sung trong bữa ăn còn có các loại  hoa quả như: mít, mận, chuối…
- Người Dao còn mua bán trao đổi lấy muối, mì chính, nước mắm, cá khô, mỡ thịt…
Đồng bào rất thích ăn canh chua và canh đắng.
+ Canh đắng được nấu từ cây lá đắng từ lòng hay mật động vật, có tác dụng giải nhiệt, chữa đái dắt, chảy máu cam, đau bụng. Các món ăn được chế biến dưới dạng xào, rán, luộc, hầm, rang….là những món ăn phổ biến hàng ngày, trong đó món dồi lợn,thịt luộc và món thịt sóc sấy khô nấu với hoa chuối rừng hay măng chua là những món ăn đặc biệt khi cần có nhiều cách để dành, tích trữ thức ăn như: muối dưa, ngâm măng chua, thịt ướp chua, phơi và sấy thịt khô…
2.Các loại bánh.
(Được làm vào các dịp lễ tết, ngày lễ)
2.1.Bánh chưng (dùa pêu): Ngâm đãi sạch gạo nếp, gói bằng lá dong, lá chít, luộc chín.  Nhân bánh làm bằng hạt lạc giã nhỏ  trộn với thịt lợn hay thịt lợn ướp hạt tiêu. Bánh có hình trụ, dài 20-30cm, to bằng bắp tay.
2.2.Bánh dày (dùa chông):Giã mịn xôi nếp, nặn bánh hình cái đĩa, rắc bột lạc hay vừng sau đó phết mỡ để bánh không bị dính và thơm. Lúc ăn chấm vào mật mía hay mật ong.
2.3.Bánh bột (dùa bướm): Nhào bột gạo nếp, gói lá dong , hấp chín.
2.4.Bánh ngô (dùa mẹ): Ngô non tẽ hạt xay nhỏ, gói bằng lá dong hay lá chuối, hấp cách thủy.
2.5. Bánh sắn (đi ằng đòi dùa): Giã mịn xôi, làm như bánh dầy.
2.6.Bánh kê (dùa tộp tsán) :Trộn bột kê với bột gạo nếp nhào nước, gói bằng lá dong, lá chít, hấp cách thủy.
2.7.Bánh tro (dùa tsit): Đốt trấu bếp và rơm nếp lấy tro, hòa tan vào nước lọc sạch cặn. Ngâm gạo vào nước tro sạch một giờ, vớt để ráo, gói bằng lá chít theo hình phễu. Nhân bánh làm bằng đậu xanh và thịt lợn, luộc trong 4 giờ.
2.8.Bánh ngô rán (dùa mẹ chin): Ngâm ngô nếp trong một tuần thay nước hàng ngày, xay bột ướt cho vào túi vải treo cho ráo nước, nặn bột hình quả rồi rán phồng.
2.9.Bánh trôi (dùa châu): Nhào lặn bột gạo nếp, viên thành viên nhỏ, có nhân đường phên luộc hay đồ chín.
3.Đồ uống thức hút và ăn trầu.
3.1.Đồ uống.
Hàng ngày đồng bào uống nước chè, nước vối, nước các cây thuốc và nước đun sôi để nguội. Nguồn  nước ở vùng cao, vùng sâu là nguồn nước  lần về từ khe, suối, ở vùng thấp là nước giếng. Trong bữa ăn gia đình hay  khi tiếp khách hay trong các lễ cúng đồng bào thường uống rượu. Rượu được cất từ thóc, gạo, ngô, khoai, sắn, các cây rừng có bột (báng, đao, móc). Đồng bào nhóm Dao Đỏ ở Sơn Phú thường cất rượu từ bột cây đao, rất thơm. Đồng bào nhóm Dao Tiền, Dao Thanh y thường uống rượu hoẵng thứ rượu không cất, ít cay, có vị thơm, vừa ngọt vừa chua. Men rượu được chế biến từ các thứ bột gạo, lá, quả và rễ cây rừng.
3.2.Thức hút.
Người Dao hút thuốc lá và thuốc lào chỉ đàn ông mới hút. Loại điếu phổ biến là điếu cày và tẩu.
3.3.Ăn trầu.
Phụ nữ Dao cũng biết ăn trầu, tập quán ăn trầu thường thấy ở nhóm Dao Áo dài ở Yên Thuận, Hàm Yên. Trầu ăn gồm có 4 thứ:vỏ, lá trầu, vôi, cao trầu.
4.Ứng xử trong ăn uống.
Trong gia đình đồng bào Dao việc nấu nướng quán xuyến tổ chức ăn uống thường do người phụ nữ đảm nhiệm. Nếu việc ăn uống có nhiều người tham gia như lễ cấp sắc, lễ vào nhà mới, đám ma...thì chủ nhà phải mời một số người thạo việc để lo tổ chức nấu ăn.
Bữa ăn của đồng bào Dao rất đơn giản chỉ có cơm, rau xanh, canh, thức ăn mặn ... và một số gia vị nếu có. Nhà ít người xếp một mâm cơm đặt gần bếp chính, nhà đông người thành viên nam ngồi mâm ở giữa gần bàn thờ, mâm thứ hai dành cho phụ nữ và người già, trẻ em gần bếp lửa. Thức ăn ở hai mâm như nhau, chỉ khác là mâm nam có rượu.
Văn hóa ẩm thực đồng bào Dao có một số kiêng cữ:
Hầu hết các nhóm Dao không ăn thịt chó, phụ nữ có thai và sau khi đẻ kiêng ăn thịt lợn sề, thịt vịt và các loại canh chua, măng ớt. Người Dao rất vốn rất mến khách mỗi khi có khách tới nhà đến bữa ăn khách đều được chủ nhà mời lại ăn cơm. Trong khi ăn có nước ấm rửa tay, sau khi ăn có người tiếp tăm chu đáo. Người Dao rất kiêng để đũa ngang miệng bát khi ăn cơm xong vì đó là dấu hiệu trong nhà sẽ có người chết.


   B.Văn hóa tinh thần


I.Tôn giáo tĩn ngưỡng:
1.Ảnh hưởng của Tam giáo.
Ở người Dao còn nhiều tàn dư tôn giáo nguyên thủy, nhưng Tam giáo đã biểu hiện rất rõ rệt, đặc biệt là Đạo giáo có nhiều ảnh hưởng sâu sắc đến tôn giáo – tín ngưỡng của người Dao.
Hầu hết hệ thống các vị thần linh của Đạo giáo đã trở thành hệ thống các vị thần linh của người Dao.
Trong hệ thống thần thánh của người Dao quần trắng, Dao đỏ, Dao đeo tiền, Dao Cooc mùn, Dao lô gang thì đứng đầu các vị thần thánh là Ngọc Hoàng thượng đế ở Thiên đình. Ngọc Hoàng không những cai quản tất cả các thần thánh, ma quỷ mà còn cai quản cả ba tầng người. Theo quan niệm của đồng bào Dao trên thế giới có ba tầng người: tầng người ở trên trời, tầng người ở giữa, tức là thế giới chúng ta và tầng người tí hon là người ở dưới đất. Theo họ người tí hon chỉ to bằng đứa trẻ sơ sinh hay chỉ thấp bằng bắp chân của tầng người ở giữa, tức chúng ta, còn người chúng ta chỉ to bằng bắp chân hay đứa trẻ sơ sinh của người trời. Người trời dắt dao vào cổ, người ở giữa dắt dao vào lưng và người tí hon dắt dao vào bắp chân. Bên cạnh Ngọc Hoàng còn có Phật, được coi là vị quân sư của Ngọc Hoàng. Nhiều nơi đồng bào lại cho rằng bên cạnh Ngọc Hoàng có một vị thánh nữ gọi là Ngọc nữ. Dưới trướng của Ngọc Hoàng và Phật còn có Thủy nguyên, Linh bảo, Đạo đức. Dưới các vị này còn c ó:
Tam thanh: Ngọc thanh, Thái thanh, Thượng thanh.
Tam bảo: Phật bảo, Pháp bảo và Tăng bảo.
Tam nguyên: Thượng nguyên, Trung nguyên và Hạ nguyên. Bên cạnh các vị trên còn có Thượng tổ, tức Thái thượng Lão quân , và Khổng tử.
Dưới nữa là các vị thần thánh lớn nhỏ chia ra làm nội và ngọai lý. Nội lý gồm những ma, thần thánh thường được thờ cúng trong nhà mỗi khi có nghi lễ lớn. Còn ngoại lý gồm những ma, thần thánh được thờ cúng ở ngoài, nhưng trong các nghi lễ lớn cũng được cúng chung với ma, thần thánh thuộc nội lý.
+ Nội lý chia làm mười giáp như:
Chiàng tàn chiàng huế (thượng đàn, thượng hỏa) gồm có: Ngọc sư, Thủy nguyên, Linh bảo, Đạo đức; Ngọc thanh, Thái thanh…
Hà tàn pèng mả (hạ đàn binh mã) gồm có Thượng nguyên đại tướng, Trung nguyên và Hạ nguyên tướng quân và những âm binh.
Chì chịa lùng sằn (Thổ trạch long thần) gồm có: Thổ trạch long thần, Ông táo, Bà mụ đen, Bà mụ trắng.
….
+ Ngoại lý gồm 5 giáp:
Tầy chiêu miên tức đại chủ thần hay còn gọi là Bàn phương địa chủ, là ma của những người đến trước sau khi chết được coi là thần chủ của địa phương ấy. Bản phương địa chủ thần còn gồm cả ma của những người đứng đầu các dòng họ. Tất cả những ma này được thờ tại miếu thổ công.
Mỉu chiêu tức là những nơi thờ các loại thần thánh, hoặc những nơi có các thần thánh như ma núi, ma sông, ma rừng…
…..
Ngoài ra, đồng bào Dao nhất là tầng lớp tào, mo, còn chịu ảnh hưởng  thuyết luân hồi định mệnh của đạo Phật. Đồng bào cho rằng kiếp sống trên dương gian là kiếp sống ngắn ngủi, đời là bể khổ, cuộc sống ở bên kia mới là vĩnh viễn; muốn trở về Dương Châu sống vĩnh viễn trong thế giới phật tiên hoặc đầu thai trở lại thành người thì người ta phải tu thân tích đức lúc sống, để khi chết linh hồn khỏi bị đày đọa ở âm phủ, khỏi phải đầu thai thành kiếp trâu ngựa.
2.Vật linh giáo, ma thuật và cúng bói.
Đồng bào cho rằng mọi vật đều có linh hồn mà họ gọi là “vần”. Khi thực thể chết hay bị hủy hoại  thì hồn biến thành ma gọi là “miên”. Theo quan niệm của đồng bào bất kì trên trái đất này đều có hồn và ma. Đồng bào thuộc các nhóm Dao đeo tiền, Dao lô gang, Dao cooc ngang, Dao cooc mùn…cho rằng xung quanh chúng ta và chỉ cách đầu ta ba thước là đã có ma quỷ thần thánh, nhưng không thể nhìn thấy được.
Người ta chia tất cả ma quỷ thần thánh ra làm hai loại: ma lành và ma dữ. Loại ma lành là những ma và thần thánh giáng phúc lành, bảo vệ cuộc sống của con người. Nếu xúc phạm tới ma lành thì cũng bị ma lành cũng có thê quở trách, các vị phúc thần gồm có ma tổ tiên, bàn vương, ma đất, ma bếp....
Loại ma dữ là những loại ma sông ma suối, ma núi, ma rừng, ma cây, ma của những người chết không bình thường như chết yểu, chết bệnh , chết vì ngã cây, chết chém…những loại ma này gây tai họa cho người làm hại gia súc và mùa màng lên đồng bào phải tổ chức cúng bái nhất là khi có tai họa xảy ra như trong làng có người ốm đau, có bệnh dịch.
Đồng bào Dao tin rằng người ta có 12 hồn hoặc 3 hồn 7 vía (Dao quần chẹt, Dao cooc mùn, Dao lô gang, Dao thanh y) . Trong số 12 hồn, hồn ở đầu là đào vần, ở mắt là ngạn vầ, ở mũi là pi vần, ở tai là nhị vần, miệng là hấu vần, ở cổ là kinh vần, ở ngực là hiốc vần, ở bụng gọi là tủ vần, ở tay là sláo vần, ở chân là kióoc vần, ở chân là hi áo vần, ở hậu môn là thuốt vần thì có một hồn chính quyểt định sự sống của con người. Mỗi Dao lại có quan niệm riêng về hồn chính: Dao Đỏ cho rằng hồn chính ở đầu, ngay nơi xoáy tóc, ở vị trí cao nhất trong thân thể người ta, vì vậy rất kỵ người lạ xoa đầu trẻ nhỏ của họ. Dao Tiền cho rằng hồn chính ở ngực vì khi tim ngừng đập thì con người cũng chết. Còn Dao Quần trắng lại cho rằng hồn chính ở mắt vì khi người ta chết không nhìn thấy nữa.
Do có quan niệm có mười hai hồn nên khi mua trẻ của người khác về làm con nuôi, đồng bào thường dùng 12 đồng bạc trắng để mua hay khi cưới rể đời cho con gái nhà gái phải trả cho bố mẹ người con trai 12 đồng bạc trắng với ý nghĩa để mua mười hai hồn của người con trai ấy.
Có nhiều cách làm ma thuật khác nhau. Có thể người ta lầy một bát nước và những vật dụng làm hại như những mũi nhọn bằng cây, những hòn sỏi, những mảnh chai, mảnh sành… người biết làm phép đọc tên của đối phương, sau đó đọc câu thần chú và ngậm nước với một trong những thứ ấy “thổi đi” để  làm hại đối phương. Một hình thức ma thuật nữa là người ta cắt hình nhân, niệm họ tên của họ vào hình nhân ấy và treo lên một cành cây và lấy cung nỏ mà bắn. Người ta cho rằng làm như vậy đối phương không chết thì cũng ốm thập tử nhất sinh.
Bên cạnh đó còn có ma thuật phòng thủ, dùng các phép thuật để hộ thân, bảo vệ cuộc sống gia đình. Người ta dùng các hình thức làm phép, niệm thần chú. Đặc biệt là trẻ em thường đeo những chiếc bùa hộ mệnh và những vật kị ma tà có mấy loại bùa như sau: một là những chiếc vòng đeo tay, đeo ở cổ bằng kim khí có đính thêm các móng hổ, ngón tay gấu để hộ mệnh, trừ đổi hồn xấu, vía độc và các loại ma mà đồng cho rằng thường làm hại trẻ em, hai là bùa bằng dây băng vải hay băng giấy (loại giấy của người Dao tiền) trong đó có ghi câu phù chú được thầy mo, thầy tào niệm phép vào đó vặn lại thành sợi dây buộc ở cánh tay cổ tay hay ở cổ.
Đồng bào còn có ma thuật tình yêu. Thanh niên nam nữ thường dùng những lời chài lời ếm hoặc niệm phép vào đồ ăn đồ uống của đối phương, cũng có thể người ta dùng loại cỏ “mỉa rào” tức lá cây trinh nữ để chài người mình say mê….
Mỗi khi người ta đau ốm, bệnh hoạn là do không đủ số hồn ở trong thân thê. Sự thiếu hụt này là do ma quái hoặc hồn đi chơi mải mê với phong cảnh đẹp mà quên đường về. Lúc ấy người bệnh phải nhờ đến thầy bói tìm kiếm và thầy bói can thiệp hộ.
Do tin người ta có hồn lên khi ngủ say là hồn tạm lìa khỏi thân thê đê chu du sang thế giới bên âm nên mới nằm mộng thấy điều này điều khác. Xuất phát từ quan niệm này mà người ta tin vào việc đoán mộng và tin mộng. Nhưng người ta lại cho rằng thế giới linh hồn đảo nghịch với thế giới vật chất đang tồn tại nên khi xem mộng và đoán mộng phải đoán ngược lại. Người ta còn tin có linh cảm và điềm báo: máy mắt là điềm chẳng lành, máy chân có việc phải đi xa, máy môi là sắp được ăn cỗ, nóng tai là có người mong...
Ngoài ra người Dao còn tin một số người có ma Ngo hải tức là loại ma người sống có thể làm hại người và súc vật giống như ma gà ma kỳ lân theo quan niệm của người Tày, Nùng. Và cũng tin một số người có phép thuật thả nhưng mũi nhọn bằng kim khí, bằng đá, bằng xương hoặc thả âm binh để làm hại người khác. Ngoài ra họ còn tin có ma thuật phòng thủ hay ma thuật chữa bệnh: đeo bùa, thần chú trừ ma, uống nước thải. Ma thuật là một hình thức mê tín dị đoan, nó gây ra nhiều tác hại làm mất đoàn kết trong nội bộ dân tộc, gây hằn thù giữa các gia đình, gây ra xung đột đổ máu.
2.Một số tín ngưỡng liên quan đến nông nghiệp.
Người Dao có khá nhiều tín ngưỡng và nghi lễ có quan hệ đến nông nghiệp. Thường trong mỗi khâu sản xuất người ta chọn ngày tốt, giờ tốt rất kỹ lưỡng. Các tiết trong một năm đều phải kiêng (24 tiết).
-         Ngày lập xuân là ngày quyết định mọi công việc làm ăn trong một năm, đồng bào cho rằng đi làm ruộng nương vào ngày này mùa màng sẽ không tốt nên phải kiêng.
-         Kinh trực là tiết nở sâu bọ,kiêng đi nương, cho rằng cứ đi sau này sâu sẽ cắn lúa.
-         Tiết xuân phân là ngày mưa gió giao hòa. Nếu không kiêng sau này sẽ có nhiều mưa bão, làm cho hoa màu bị hư hại, thóc bị nép.
-         Thanh minh là ngày trời trong nắng đẹp, phải kiêng nắng, cấm không ai được gánh gồng đội nón. Nếu không kiêng sau này trời hạn to, lúa ngô bị chết héo, thu hoạch kém.
..............
Ngoài ra đồng bào còn nhiều điều kiêng kị: đi nương nhất là hôm tra lúa, người ta không được huýt sáo, không được bắt chước tiếng chim thú, thậm chí không được nhắc tên chúng  bởi vì sợ sau này chúng đến phá nương. Khi lúa bắt đầu đâm bông kiêng không được đun củi tươi sợ rằng sau nay lúa bị nép nhiều, không được đun củi từ đằng ngọn, kiêng không được ngồi ngay cửa ra vào, làm như thế lúa không đẻ được.
Một trong những lễ cúng không thể thiếu là lễ cúng thóc giống. Trong khi làm lễ cúng thóc giống nhất thiết không cho ai vào, kể cả bà con họ hàng, sợ rằng hồn lúa sẽ theo người đó đi mất. Sau khi cúng trong vòng một ngày một đêm, những người trong gia đình đó cũng không được đến nhà người khác sợ hồn lúa đi theo và ở lại luôn đó.
Lễ cúng nương, lễ cúng vào dịp lập thu, lễ cúng cơm mới, cúng hồn lúa đều là những lễ cúng riêng ở từng gia đình. Người Dao còn có những lễ cúng của cả xóm: chiu tàn (cầu mưa), piên pùng ti chiêu (bản phương địa chủ)...
Đối với chăn nuôi cũng phải thờ hai vị thần và nhiều kiên kỵ: không được khen gia súc to béo, ngược lại cũng không được chê nhỏ và gầy, sợ thần sẽ quở trách.
Đối với săn bắn, khi bắt đầu làm súng người ta phải chọn ngày sát và ngày đại sát. Săn được thú phải cúng thần rừng, thổ công, ma súng và thần săn bắn.
Các nghề thủ công như: làm giấy, rèn, xẻ gỗ.... đều phải cúng tổ sư.
Người Dao cũng thờ cúng tổ tiên như nhiều dân tộc khác ở nước ta. Ma tổ tiên được thờ riêng ở từng gia đình hoặc ở tại nhà tộc trưởng. Tổ tiên thường được thờ tới chín đời, nhưng trong việc thờ cúng hàng ngày, người ta chỉ cầu khấn đến ông tổ ba đời. Bàn thờ tổ tiên được coi là nơi tôn nghiêm nhất trong nhà. Đồng bào quan niệm rằng không phải lúc nào tổ tiên cũng ngự lại bàn thờ mà nơi chủ yếu là Dương Châu đại điện, tổ tiên thường về thăm con cháu vào ngày mồng một và ngày rằm hàng tháng.
Thờ cúng Bàn Vương cũng thuộc tục thờ cúng tổ tiên, chỉ khác Bàn Vương không phải là tổ tiên gần của một vài gia đình hay một vài dòng họ mà Bàn Vương được quan niệm là thủy tổ của người Dao.
Cũng như cúng Bàn Vương, cấp sắc là một tục lệ rất phổ biến ở người Dao, tất cả người đàn ông Dao phải qua lễ này. Nếu lúc sống chưa được cấp sắc, sau khi chết con cháu cũng phải làm. Cấp sắc là điều bắt buộc. Không được cấp sắc thì không được làm thầy cúng, có cấp sắc mới được các thần thánh công nhận và được cấp âm binh. Người được cấp sắc sau khi chết với được về với tổ tiên ở Dương Châu. Có cấp sắc mới được nhận tên âm, mới có quyền thờ cúng tổ tiên. Có cấp sắc mới được xã hội coi là người lớn, nếu không già vẫn coi là trẻ nhỏ và sau khi chết hồn chỉ được về động Đào hoa. Chính vì quan niệm như vậy nên tốn kém bao nhiêu, gia đình nào có con trai đến tuổi đều phải tổ chức lễ này.
Qua một vài nét trình bày về người Dao cũng đủ thấy người Dao còn quá tin vào ma quỷ, tục lệ cúng bái, kiêng cữ còn rất nặng nề. Tất cả những cái đó ảnh hưởng to lớn tới cuộc sống của đồng bào. Đến nay tuy đã giảm nhiều nhưng so với các mặt khác còn chậm tiến bộ. Trong việc chữa bệnh đồng bào đã làm quen với Tây y nhưng vẫn còn cúng bái khá tốn kém.
Hình ảnh


Phong tục tập quán: Người Dao thờ tổ tiên là Bàn Hồ. Qua tên đệm xác định dòng họ và thứ













            







Lễ cầu mùa


2.Văn nghệ dân gian:
2.1.Truyện kể.
Gồm truyện thần thoại, truyện cổ tích, truyện thơ với nội dung chính:
Ÿ Phản ánh quan niệm về các hiện tượng tự nhiên, nguồn gốc vũ trụ, nguồn gốc loài người, nguồn gốc của người Dao.
-         Truyện thơ Bàn Hồ dài trên 5000 câu viết ông thủy tổ huyền thoại Bàn Hồ đồng thời là bài cúng phản ánh quan niệm của người Dao về nguồn gốc vũ trụ, muôn vật, nguồn gốc loài người, nguồn gốc của người Dao.
“Thái cực tiên sinh, sinh Bàn cổ
Khai bảo nguyên niên vua ra đời,
Chưa có trời mà đã có đất
Trước có Ngọc Hoàng với Bàn cổ
Tôi ra cùng lứa với Ngọc Hoàng
Ngọc Hoàng ba trăm sáu hóa cách
Bàn cổ ba trăm sáu hóa thân
…….
-         Truyện quả bầu kể rằng có một nông dân nghèo mưu bắt Thiên lôi để ăn thịt. Bắt được thiên lôi sơ ý chàng để sống mất nên mới có chuyện ngập thiên hạ làm chết người và muôn vật chỉ sống sót có hai chị em. Qua nhiều lần thử thách hai chị em đành lấy nhau sinh ra 360 họ gốc gác của loài người trên trái đất hiện nay. Bàn Vương thủy tổ của người Dao cũng là một trong 360 họ đó.
-         Truyện Sự tích mặt trời mặt trăng : kể lại rằng xưa có 12 mặt trời, 12 mặt trăng. Thời ấy rất nóng, mọi sinh hoạt đều phải làm ban đêm. Có lần mặt trời thiêu chết con trai của một nhà nọ người chồng liền đứng ở bờ biển dương cung bắn rơi 11 mặt trời chỉ để lại một mặt trời, và11 mặt trăng cũng chết theo vỉ mặt trời là chồng, mặt trăng là vợ. Người vợ tức giận băm nhỏ mặt trời làm vô vàn mảnh tung lên trời thành các vì sao như ngày nay.
Ÿ Phán ánh quá trình thiên di đầy gian truân tìm đất làm ăn.
Các truyện thơ Đặng Hành và Bàn Đại Hội. Câu chuyện kể về cuộc hành trình của hai nguời họ Dao sang Việt Nam tìm đất làm ăn, hai người này đến Việt Nam (theo truyện đời nhà Lý ?)không biết tiếng nên bị triều đình nghi là kẻ gian, giam giữ mấy năm. Sau đó nhân trời rét người đó lấy “quá sơn bảng ra đắp” tờ lệnh vua Trung Quốc cấp cho đi tìm đất làm ăn, triều đình thấy vậy thả họ cho họ đi tìm đất làm ăn.
Ÿ Phản ánh quan hệ xã hội:
Các truyện đề cập mâu thuẫn giữa thiện và ác, giữa người chăm làm và kẻ lười biếng, kết thúc có hậu nói lên ước mơ về cuộc sống ấm no.
Truyện người “Người mồ côi” do ông Bàn Văn Tiến ở nhóm Cooc mùn ở  Trung Minh kể, “chiếc sừng nai”, “chuyện con cóc” do ông Phùng Chương Chí ở nhóm Dao đỏ ở Thổ Bình kể
Ÿ Kể về sự tích các loài vật, các hiện tượng tự nhiên xã hội:
Vì sao con chuột ăn lúa, sự tích con ve sầu, sự tích cây bông…

 Văn học.
Thơ ca cũng như các sáng tác dân gian khác là món ăn tinh thần không thể thiếu được với nhân dân lao động Dao. Qua một vài mẩu thơ nhỏ dưới đây có lẽ đã phản ánh được bước nào tâm hồn và cuộc sống của người Dao trước đây.
Với cuộc sống du canh du cư thật là bấp bênh khổ cực:
“ Thiếu rượu uống vì năm mùa mất
Hạn kéo dài nương đất nẻ khô
Gặt xong đổ thóc vào bồ
 Lưng lửng nửa bồ thóc nép thóc rơm”
Cuộc sống đầy vất vả khó khăn, đầy lo âu, sợ hãi, nhưng đồng bào vẫn tin vào đôi tay rắn chắc, cần cù lao động của mình.
Nữ: “ Trên đời quý nhất thứ gì?
Mong anh giải đáp em thì được ngay”.
Nam: “ Em hỏi anh trả lời ngay
Trên đời quý nhất bàn tay cần cù”.
Cuộc sống như vậy nhưng con người vẫn cần cù lao động vẫn yêu đời hơn ai hết. Họ là những người rất giàu tình cảm với thiên nhiên, với cuộc sống và con người. Họ rất yêu quý mùa xuân bởi vì mùa xuân là mùa xuân của sinh sôi nảy nở, mùa hy vọng, mùa ca hát của lứa đôi, họ mong đợi họ khao khát:
“Anh lo thì em cũng lo
Anh lo sao có cơm no trâu cày
Em lo nương rẫy luôn tay
Mong sao xuân tới được ngày hát vui”
2.2.Tục ngữ của người Dao cũng rất phong phú và đặc sắc:
- Đường ngọt chết kiến
- Chuối nhà không vun, vun chuối rừng.
- Có trồng mới có ăn, không trồng bụng đói quanh năm.
- Gai song nhọn, nhọn từ trong bẹ.
2.3.Người Dao cũng có rất nhiều câu đố:
- Ba anh em vần chung nhau một cái khăn ( cái kiềng)
- Rồng mẹ đẻ ra dím con ( cây dứa).
- Nước qua bên trên thuyền qua bên dưới ( máng nước).
- Dây dài chém không bao giờ đứt. (dòng nước).
2.4.Người Dao chỉ có một số truyện thơ được ghi thành sách bằng chữ Hán ( phát âm theo tiếng Dao) còn phổ biến là truyện kể miệng:
Hai chị em, Con quạ và cái trống, Lò sủ ní, Yêu tinh, Chàng Sùng Sièng....
Ngoài ra còn một số truyện cổ của Trung Quốc lưu truyền trong người Dao.
2.5.Hát tiếng Dao là dủng, nhưng người ta thường nói là páo dung hay ay dủng.
Ca hát chỉ có một số làn nhất định như: páo phây ( ngâm thơ), páo dung om hay còn gọi là páo dung tòi tồm dòi lủng ( hát đối đáp giữa trai chưa vợ chưa chồng với nhau), páo dung muộn ( hát ghẹo)....
Tổ chức một tối hát giữa nam nữ:

Được tin có trai làng khác tới hát, các cô gái trong lang ra tiếp đón mời về nhà thiết cơm. Tối đến họ xin phép ông bà cha mẹ và những người tới dự để cuộc hát được bắt đầu. Trước tiên bên trai hát chúc mừng gia chủ rồi hát khiêu khích để bên gái lên tiếng với làn điệu páo phây. Bên trai hát rất lâu bên gái mới chịu lên tiếng, khi bên gái lên tiếng bên trai chuyển sang làn điệu páo dung om. Cuộc vui đó cứ kéo dài cho tới sáng....
Nghệ thuật trang trí trên trang phục bằng cách thêu hay dệt, khắc trên bạc hoặc đồng thì đã đạt đến trình độ cao. Hoa văn trang trí trên trang phục của người Dao không chỉ thể hiện tính cần cù nhẫn nại, bàn tay khéo léo, con mắt thẩm mỹ của người Dao về nghệ thuật còn cho thấy sự tinh tế trong sử dụng màu sắc; cách bố cục tác phẩm cân đối, hài hòa tươi vui, trong sáng nhưng không kém phần kín đáo, và đặc biệt là sự phong phú về các loại hình môtíp khác nhau. Một số môtíp phổ biến nhất và thường thấy trên trang phục của nhiều nhóm:


·        Hoa văn kỷ hà: các vạch thẳng song song, các vạch thẳng song song cắt nhau, những đường gấp khúc song song...
·        Hoa văn hình hoa lá: lá, cành lá, cây thông, cây có quả..
·        Hoa vă hình công cụ: cũi lợn, cái bừa
·        Hoa văn hình muông thú: chim có mào, chim đuôi to....
·        Hoa văn hình người: người giơ tay, người hai tay chống nẹ, người cúi lưng...
·        Hoa văn chữ Hán cách điệu: chữ vạn đơn, chữ van kép, chữ thọ và một chữ nào đó đã cách điệu quá xa nên không nhớ rõ chữ gốc.
·        Hoa văn hỗn hợp: người đội hoa, người cầm lọng, người cưỡi ngựa..
3.Lễ hội.
3.1.Lễ cúng thóc giống.
Một trong những lễ cúng không thể thiếu được là lễ cúng thóc giống. Thường thường lễ cúng này được tiến hành trước khi đem thóc giống ra tra nương hoặc cúng trong dịp Tết Thanh minh. Lễ cúng này được tiến hành trong nhà. Người ta lập một đàn cúng trước bàn thờ tổ tiên đặt vào đó một cum thóc giống, lấy một tờ giấy bản vẽ hay cắt thành những hình khuyết: trên cùng là một hình tròn tượng trưng cho mặt trời, hình một người đứng thẳng, tay cầm nông cụ (dao rìu hay cuốc) và một bó lúa bên dưới là một cái bát, một đôi đũa một con chó, một đàn gà, một con cá và  một con rắn. Tờ giấy này được kẹp chặt vào một que nứa và được cắm vào cum thóc giống đem ra để cúng. Trên đàn cúng, bên cạnh cum thóc giống, còn có một bát nước, một bát gạo, xôi và một con gà luộc. Họ bắt đầu cúng, đại khái khấn rằng: “Một hạt thóc sau này sinh thành trăm hạt, một cum thóc giống sau này được trăm cum…” Cúng xong họ lại đặt bó lúa với tờ giấy có hình vẽ hay hình khuyết ấy vào đống thóc giống như cũ, khi tra nương thì đem cum thóc ấy ra tra trước. Tra nương xong mới đốt tờ giấy ấy đi.
Trong khi làm lễ cúng thóc giống, họ cấm người ngoài kể cả bà con thân thích vào nhà sợ rằng hồn thóc hồn lúa sẽ theo người ấy đi mất, hoặc sợ rằng hồn của người ngoài không tốt vào nhà sẽ ảnh hưởng đến lễ cúng. Sau khi cúng xong trong vòng một đêm một ngày những người trong gia đình không được đi đến nhà người khác, sợ hồn thóc giống đi theo và ở lại nhà người ta, sau này lúa của gia đình sẽ không được tốt.
Ở những nơi có bàn thờ chung của dòng họ hay của gia tộc thì lễ cúng này được tiến hành tại nhà trưởng họ. Nhiều nơi có lễ cúng thóc giống chung của cả xóm vào cuối tháng tư đầu tháng năm. Sau đó người đứng đầu thôn xóm được tra nương hoặc cấy ruộng trước,  rồi mới phân phát thóc giống hay mạ đã đem cúng  tại thổ công cho từng gia đình trong thôn xóm.
3.2.Lễ cúng nương.
Chọn được ngày tốt đồng bào bắt đầu tra nương. Ngày hôm đó chủ nương dậy thật sớm, đi nương sớm hơn mọi người mang theo một con gà luộc, một nắm xôi một chai rượu và ít giấy (tiền ma) để đốt. Đến giữa nương, người chủ nương chọn một chỗ tương đối bằng phẳng hay chọn chỗ có vách đất, dựng một lều cúng, trong lều kê một hòn đá phẳng để có thể đặt được những vật cúng, rồi lấy nứa làm độ 3-4  cái chén con. Chuẩn bị xong xuôi chủ nương bắt đầu thắp hương và cúng. Trong lễ cúng nương, chủ yếu là cúng các vị thần ở nương, thần thổ địa, thần bảo vệ mùa màng, thần nông thần chăm sóc lúa… Sau khi tra nương xong chủ nương đem thóc giống còn thừa vãi xung quanh lều cúng. Sau này mỗi lần đi thăm nương thì nhớ đến thăm nom lều cúng, rót rượu, nước chè (hay nước lã cũng được) tỏ ý tôn kính và mong các thần luôn luôn phù hộ bảo vệ mùa màng.
Vào tháng sáu, sau khi đã làm xong cỏ đợt thứ nhất, đồng bào còn làm một lễ cúng nương nữa. Lễ cúng nương này được tiến hành trong nhà. Họ cũng lập đàn cúng và dung những lễ vật như mọi lần cúng bái khác, chủ yếu là họ cúng gia tiên, thần nông, thần bảo vệ nương, cầu mong các thần phù hộ cho nương tốt, không cho sâu bọ cắn và thú rừng phá hoại…Ở nhóm Dao Áo Dài, trong lễ cúng này còn một nghi thức nữa là đồng bào đặt vào cạnh đàn cúng một cây mía (đào lấy cả rễ)  và một ống nứa có cắn thêm một cây lau. Sau khi cúng cây mía được đem trồng trên nương lúa, còn ống lúa có cắm cây lau thì để vào một chiếc sọt đặt lên sàn gác cạnh đống thóc. Nghi thức này có ý nghĩa là mong lúa tốt tươi cao to như cây mía, bông lúa to như bông lau.
3.3.Lễ cúng vào dịp tết lập thu.
Lễ cúng này xuất phát từ một câu chuyện như sau: xưa có một người phụ nữ đi làm nương vào ngày lập thu nghe được tiếng ma nói chuyện với nhau và rủ nhau xuống hạ giới kiếm tiền tiêu. Người phụ nữ ấy hồn xiêu phách lạc về nhà thuật lại “những điều ma nói với nhau cho bà con họ hang biết, rồi đột ngột ốm nặng và chết. Từ đó có tục kiêng vào ngày lập thu và làm lễ cúng vào ngày ấy. Lễ cúng rất đơn giản. Họ lấy giấy (tiền ma) treo khắp ngả đường trên nương ngoài ruộng…để ma qua lại thấy lấy về sẽ không bắt hồn của người sống nữa.
3.4.Lễ cúng cơm mới.
Đây là một trong những lễ cúng quan trọng. Lễ cúng được tổ chức trong nhà. Cúng cơm mới là lễ tạ ơn tổ tiên đã phù hộ cho mùa màng tốt, lúa ngô đã có thể thu hoạch được. Trước hết họ gặt một ít thóc đầu mùa mang về phơi khô, giã thành gạo và nấu cơm; nếu lúa chưa chin, họ lấy gạo cũ thổi cơm ngắt lấy mấy bông lúa bỏ vào nồi cơm để có hương vị lúa mới và coi đó là cơm mới. Sau đó đặt cơm mới và các thức ăn khác như thịt cá, rượu, một bát canh đa vị gồm: bí, đọt bí, mướp, rau cải, hành, dưa, cà chua… lên bàn thờ tổ tiên và cắm những bông lúa đã được hấp trong nồi cơm vào bát nhang hay trên những tấm liếp vây xung quanh bàn thờ. Chủ gia đình đứng nghiêm trang trước bàn thờ, kể lể công ơn của tổ tiên và cầu mong tổ tiên tiếp tục phù hộ mãi mãi về sau để cho công việc làm ăn ngày càng gặp nhiều may mắn. Cúng xong, toàn thể gia đình quây quần ăn uống với nhau, người chủ gia đình ăn trước, ăn khắp lượt mỗi món một miếng, rồi vợ con mới bắt đầu cùng ăn,  cuối bữa cơm mọi người cố ý để thừa trong bát một ít cơm và vài miếng rau, và hôm ấy người ta không được rửa bát ngụ ý là sau này cơm gạo thừa thãi. Hôm cúng cơm mới họ cấm người ngoài, kể cả bà con thân thích vào nhà.
3.4.Lễ cúng hồn lúa.
Lễ cúng này thường được tổ chức vào tháng một đầu tháng chạp, tức sau khi gặt xong, kết thúc một chu kì sản xuất. Hôm gặt lúa đầu tiên, chủ gia đình đến nương trước tiên đem theo một ống nứa. Người chủ gia đình niệm thần chú, rồi bắt đầu thu nhặt mỗi nơi vài bông lúa bỏ vào ống nứa, tức thu hồn lúa vào đó, lấy một hòn đá mỏng và phẳng đậy ống nứa lại cất vào lều cúng và tất cả mọi người bắt đầu gặt. Gặt xong, họ lấy những bông lúa trong ống nứa buộc ghép vào cum thóc cuối cùng và cum thóc này được gánh về nhà sau cùng. Đem về đến nhà, cum thóc ấy được đặt vào dưới bàn thờ tổ tiên để ngay tối hôm ấy hoặc ngày hôm sau người ta sẽ làm lễ cúng hồn lúa. Mục đích cúng là mừng lúa đã về nhà. Và theo quan niệm của đồng bào, mỗi bông lúa đều có hồn, trước lúc gặt chúng cùng sinh sống yên ấm trong một “cộng đồng” trên nương rẫy, nhưng trong lúc gặt không tránh khỏi một số bông lúa tức hồn lúa bị bỏ sót lại trên nương rẫy, hồn chúng bơ vơ không được ai chăm sóc nên đồng bào thường làm lễ cúng này để thu hết tất cả hồn lúa về nhà và cứ như vậy trong những vụ sau lúa mới được tốt tươi.
Ngoài các lễ cúng vừa kể trên  là những lễ cúng có tính chất riêng của từng gia đình, còn có những lễ cúng chung của toàn thể làng xóm gọi là các lễ “chìu tàn” (cầu thần cầu mùa). Thường thường trong một năm có tới 5-6 lần cúng như vậy. Như người Dao Áo Dài có một tổ chức gồm ba người gọi là “xá chấu”, “xa thầy” và “thóc làu”. Thường thường các lễ cúng chung thường được tổ chức tại miếu thổ công đầu làng,người Dao Thanh y người ta tổ chức lễ cúng ngay tại nhà người đứng đầu công xã. Sau lễ cúng tất cả những người đại diện cho các gia đình cùng ăn uống tại đó, không được dành phần đem về nhà. Riêng trong lễ cúng ngày mồng hai tháng hai âm lịch của người Dao Áo dài, sau khi cúng, mỗi người được mang về nhà một bánh chưng và một đùi gà tượng trưng cho may mắn của vụ sản xuất trong năm.
Ngoài những vị thần được cúng, còn có ma của những  người đứng đầu công xã được coi là linh thiêng và cũng được thờ chung ở miếu thổ công gọi là “piền pung ti chiêu” tức “ bản phương địa chủ”, người Dao đeo tiền gọi là “tẩy chiêu miên’ địa chủ thần. Những vị thần này có nhiệm vụ bảo vệ mùa màng, bảo vệ thôn xóm để nông dân yên ổn làm ăn.
4.Thờ cúng tổ tiên.
Thờ cúng tổ tiên là một việc thờ cúng chủ yếu trong gia đình của đồng bào Dao. Tổ tiên có thể được thờ cúng tại nhà tộc trưởng hay ở từng gia đình.
Đồng bào cho rằng khi ông bà cha mẹ mất, linh hồn trở về thế giới bên kia mà quê hương là Dương Châu đại điện. Tuy vậy những linh hồn ấy, tức tổ tiên, vẫn thường xuyên có mối quan hệ với con cháu, tức những người còn sống trên dương thế, nhưng chúng ta không thể nhìn thấy được. Tổ tiên cũng làm ăn sinh hoạt như người ở trần thế, chăm sóc bảo vệ con cháu như lúc còn sống. Do đó, con cháu phải có nghĩa vụ thờ cúng tổ tiên, tức cung cấp  những thứ cần thiết  cho sinh hoạt hang ngày của tổ tiên.
Tổ tiên thuộc loại ma lành phù hộ cho con cháu.Tuy nhiên nếu không thờ cúng cẩn thận, tổ tiên cũng có thể bắt tội, bắt phạt, làm cho con cháu ốm đau bệnh tật, sinh ra thiếu thốn, vất vả. Tuy xuất phát điểm của nó là vật linh giáo và tục thờ cúng thần thị tộc, gia tộc nhưng về sau khi quan hệ phong kiến phát triển và do ảnh hưởng của văn hóa Hán tộc vào xã hội người Dao, nên việc thờ cúng tổ tiên của người Dao chịu ảnh hưởng ít nhiều của hệ tư tưởng Khổng giáo.
Thường thường người Dao thờ tổ tiên chín đời. Điều này thể hiện rõ trong các nghi lễ lớn, như cấp sắc, tảo mộ hoặc trong dịp lễ lớn của gia đình. Trong những dịp ấy, đồng bào thường khấn tổ tiên từ đời thứ chín trở xuống. Nhưng trong dịp thờ cúng hàng ngày chỉ cần cầu khấn đến ông tổ ba đời, có khi chỉ cầu khấn đến đời ông bà cha mẹ.
Ở nhiều nơi đồng bào còn thờ cúng tổ tiên chung của dòng họ hay của gia tộc. Bàn thờ chung của gia tộc gọi là “hồng lầu”, được đặt tại nhà tộc trưởng. Ở một số nhóm Dao, ngoài “hồng lầu” ra, còn những bàn thờ riêng ở từng hộ gia đình, và tổ tiên được thờ cúng trong trường hợp này chỉ bắt đầu từ đời bố mẹ. Ở người Dao Quần Trắng, Dao Thanh Y, Dao Áo Dài, bàn thờ chung của gia tộc không còn tồn tại nữa, mỗi khi con cháu ra ở riêng thì tổ tiên cũng được phân chia để thờ riêng ở mỗi gia đình. Tổ tiên phân chia bằng cách: những người tách ra ở riêng lấy hương thắp vào bàn thờ cũ bàn thờ của gia tộc sau đó lấy vài nén hương đang cháy cắm vào bát hương của mình và đem về nhà đặt vào thờ đã dựng sẵn.
Bàn thờ tổ tiên dù là hồng lầu hay bàn thờ nhỏ ở mỗi hộ gia đình, đặt ngay ở gian giữa nhà. Bàn thờ là một tấm ván hay một cái giàn con treo trên vách, có mái che bằng tranh hay bằng phên, hai bên sườn che bằng liếp. Cũng có khi bàn thờ tổ tiên được dựng như một mô hình nhà hay một cái bục con tại gian nhà giữa. Đằng trước hay bên cạnh bàn thờ (hồng lầu hay bàn thờ tổ tiên của các thầy cúng, thầy tào) người ta treo một cái trống, trống này chỉ được đánh trong các dịp lễ tết để tấu thỉnh gia tiên và để báo cho bà con trong họ ở cùng thôn xóm về làm lễ. Cái trống đó được treo bằng một chiếc dây thừng hay da thú, dây này buộc lên thượng lương của nhà. Ngay trên vách hồng lầu người ta treo hai ống nứa hay hai túi vải đựng hai bộ tranh  “Tam thanh lớn” và “Tam thanh nhỏ”. Tam thanh lớn gồm 13 bức tranh. Tam thanh nhỏ chỉ có ba bức vẽ Ngọc Thanh, Thái Thanh và Thượng Thanh. Hai bộ tranh này theo đồng bào là rất linh thiêng. Mỗi khi vẽ chúng, dù là vẽ lại, phải mổ hàng mấy con lợn để cúng, còn những tranh cũ thì không được đem đốt nhất là không được đem dùng vào việc “uế tạp”. Khi có tranh mới hoặc không còn ai có khả năng quản lí hai bộ tranh nữa thì phải bí mật đem cất giấu vào một hang đá nào đó. Hai bộ tranh này không được tùy tiện mở ra xem, cho rằng như thế “âm binh” sẽ nổi loạn. Hai bộ tranh này chỉ được treo khi làm những nghi lễ lớn như cấp sắc, cúng Bàn Vương, “làm nhà mới cho tổ tiên”, trong hai ngày Tết Nguyên đán và Trung nguyên (14 tháng 7 âm lịch) và chỉ được đem phơi nắng vào ngày mồng sáu tháng sáu âm lịch. Trong các ngăn bàn thờ tổ tiên của thầy cúng, thầy tào, người ta còn để những nhạc cụ và đồ cúng tế như: trống, thanh la, não bạt, mũ, áo và các sách cúng…
Bàn thờ tổ tiên được coi là chỗ tôn nghiêm nhất trong gia đình (trong căn nhà). Phụ nữ đặc biệt là các cô dâu, ít khi được đến gần. Cả khi quét nhà người ta cũng luôn  chú ý quay mặt về phía bàn thờ mà quét lui trở ra, quay lưng về phía bàn thờ coi như là một thái độ thiếu tôn kính đối với tổ tiên.
Đồng bào quan niệm rằng không phải lúc nào tổ tiên cũng trú ngụ ở bàn thờ mà chủ yếu ở “Dương châu đại điện” thỉnh thoảng tổ tiên mới lai vãng về trần gian thăm con cháu thường thường vào ngày mồng một và ngày rằm của mỗi tháng và trong những dịp tết lễ. Những ngày mồng một và ngày rằm đồng bào chỉ cúng tổ tiên bằng trà, rượu, trầu cau, nhiều khi cả hương nhang cũng không đốt. Trong dịp lễ cúng bằng xôi, thịt, rượu, bánh nghĩa là đồng bào ăn uống thứ gì thì cúng thứ đó, còn những ngày lễ lớn phải mổ lợn để cúng.
Việc thờ cúng tổ tiên thường do chủ gia đình hoặc con trai trưởng chủ trì. Nếu trong gia đình không còn một người đàn ông nào nữa, con gái với tư cách là người kế thừa kế sẽ lo liệu công việc thờ phụng, nhưng phải  nhờ một người đàn ông khác trong họ đến cúng.
Trong việc thờ cúng tổ tiên còn phải kể đến hai nghi  lễ nữa:
Ÿ Lễ tảo mộ.
Ở những nhóm ít chuyển cư, việc tảo mộ thường được đồng bào coi trọng. Hàng năm cứ vào ngày tết mồng ba tháng ba, đồng bào sắm sửa các lễ vật như: thịt rượu, xôi, bánh….mang ra tận mồ mả ông bà cha mẹ để cúng. Những người đi tảo mộ cùng nhau phát cây cỏ, đắp đất, sửa sang mồ mả. Làm xong họ ăn uống trước mồ mả, rồi ra về.
Ở những nhóm chưa định cư, nếu có mồ mả ở gần, họ cũng làm lễ tảo mộ, nếu mồ mả ở xa, họ chỉ làm một lễ cúng chung tại gia đình. Lễ cúng này phổ biến ở người Dao quần trắng và Dao thanh y. Đồng bào thường lấy ba nắm đất cùng với các lễ vật đặt vào đàn cúng lập ngay trước cửa ra vào, rồi khấn ông bà cha mẹ ở các nơi về nhận lễ vật.
Ÿ Lễ “chảy chấu”.
“Chảy chấu” là một hình thức lễ tảo mộ, nhưng chỉ  là lễ tảo mộ có tính chất tượng trưng. Ở một số nơi đồng bào còn gọi là “ lễ làm nhà mới’ cho tổ tiên. Do việc di chuyển thường xuyên và ngày càng đi xa những địa phương mà tổ tiên của họ đã từng cư trú, nên đồng bào không có điều kiện trở lại những nơi ấy để làm lễ tảo mộ được. Hơn nữa số mồ mả lại rất nhiều, rải rác tại nhiều địa phương, cho nên đồng bào phải làm lễ tảo mộ tượng trưng .
Khi đã chọn được ngày lành tháng tốt, đồng bào bắt đầu làm lễ “chảy chấu”. Trước hết họ làm một lễ cúng nhỏ để báo cho tổ tiên biết họ sắp làm nghi lễ ấy. Sau đó đồng bào dựng một chiếc lều ở ngoài đồng (ngoài bãi), trong lều người ta đắp mả giả, số lượng mả giả bằng số lượng từ đời tổ tiên thứ chín trở xuống. Trên mỗi mồ mả người ta treo một đèn lồng. Công việc chuẩn bị xong các thầy cúng, thầy tào bắt đầu cúng và mời tổ tiên về nhận lấy mả mới.Trong lễ cúng  này có một nghi thức đáng chú ý là khi thầy cúng đọc đến tên vị tổ tiên nào thì những người trong gia đình phải quỳ lạy vảo mả giả và sau đó dùng cuốc xẻng phá mả giả ấy và xúc hết đất hất ra khỏi lều, đó chính là lễ bắc cầu “đưa” mả về đến tận nơi của tổ tiên.
Thường thường trong một đời người đời đồng bào phải làm lễ ấy vài lần. Có nơi chín hoặc mười năm làm một lần, có nơi hai mươi làm một lần có nơi còn lâu hơn nữa, có khi cả đời mới làm một  lần, có khi cả đời không làm được lần nào.
5.Thờ cúng Bàn Vương “Chẩu đàng”.
Thờ cúng Bàn Vương là một tục lệ khá điển hình trong sinh hoạt của người Dao. Ở bất cứ nhóm Dao nào họ đều chú trọng đến việc thờ cúng này. Nhưng tục thờ cúng bàn Vương lại rất đậm nét ở nhóm phương ngữ thứ nhất thì lại rất mờ nhạt ở nhóm phương ngữ thứ hai. Ở các nhóm thuộc phương ngữ thứ hai không có những lễ cúng Bàn Vương riêng, trong khi đó việc thờ cúng lệnh công và Phật bà rất phổ biến. Tuy vậy Bàn Vương được kết hợp khi làm ma chay, cấp sắc…cho nên Bàn Vương vẫn cứ  là biểu tượng chung của người Dao.
Ở người Dao phân biệt rất rõ giữa Bàn Vương và Bàn Cổ. Đồng bào gọi Bàn Cồ là “piền cấu sỉnh miền” (Bàn cổ thánh nhân) gọi Bàn Vương là “piền hùng sỉnh tỉa” (Bàn Hoàng thánh đế)
Bàn Vương được đồng bào Dao gọi là thủy tổ của các dòng họ của mình nên cũng được coi là một loại ma nhà và được cúng bái chung với tổ tiên của từng họ, từng gia đình. Thường thường Bàn Vương được thờ cúng với gia tiên và năm vị thần khác là: thần thóc gạo, thần coi sóc việc ca hát văn nghệ, thần săn bắn và hai vị thần  trông nom việc chăn nuôi. Trong các nghi lễ lớn như lễ cấp sắc, chảy chấu, tết nhảy, ma chay… đều phải cúng Bàn Vương.
Ngoài việc thờ cúng hàng ngày, còn có những lễ cúng Bàn Vương riêng. Trong Bình Hoàng Khoán Điệp có ghi rằng cứ ba năm cúng một lần và cúng liền trong ba năm.
Tuy mỗi nhóm Dao có một số chi tiết riêng, nhưng tục cúng Bàn Vương căn bản vẫn giống nhau. Nó bao gồm những nghi lễ chính sau đây:
¯ Lễ khất:
Vào những năm làm ăn thất bát, sinh hoạt gia đình gặp nhiều khó khăn, người ta làm một lễ cúng để khất, hứa rằng nếu Bàn Vương phù hộ tai qua nạn khỏi, làm ăn mát mặt hơn thì sẽ tổ chức lễ cúng Bàn Vương.
Trước hết họ nuôi hai con lợn, mộ cho Bàn Vương một cho các vị thần khác và gia tiên. Khi bắt đầu nuôi hai con lợn đồng bào phải làm một lễ cúng nữa để báo cho Bàn Vương biết trước. Hai con  lợn này gọi là hai con lợn cúng (lợn của thần) được nuôi trong hai ngăn chuồng riêng. Nhiều khi họ nuôi trong một chuồng kín khác (người Dao quần chẹt nuôi hai con lợn thần ấy ngay ở gầm sàn) để người ngoài, nhất là khách lạ không trông thấy. Vì đây là hai con lợn của thần thánh nên không được bán, không cho bà con vay mượn, thậm chí không được đánh chửi mắng chúng, chúng ăn thế nào cũng mặc, gầy béo không được khen hay chê.
Trước ngày làm lễ cúng độ vài tuần, đồng bào bắt đầu nấu rượu. Rượu sau khi cất thường được để vào hai chum hay vò riêng (một chum cho Bàn Vương một cho các vị thần và gia tiên) và được cất kín trong buồng phía sau bàn thờ tổ tiên, nhưng phải che kín để người ngoài không thấy, rau cỏ được chuẩn bị đầy đủ.
¯Lễ cúng Bàn Vương.
Trước hết ba thầy cúng được mời đến làm lễ lập đàn cúng và lập đàn cho các thánh tướng và âm binh của ba thầy cúng. Sau đó thầy cúng làm phép tẩy uế bằng cách lấy “ nước phép” vẩy khắp nhà, sau đó làm phép “trấn an” cho gia đình trong cả quá trình tiến hành nghi lễ bằng cách dán những lá bùa xung quanh nhà, rồi làm lễ khấn Bàn Vương, gia tiên và các vị thánh đến chứng giám buổi lễ. Liền sau đó người ta mổ lợn để cúng. Con thứ nhất cúng gia tiên và các vị thần thánh. Con thứ hai cúng Tam miếu vương “Puô miếu hùng”, trong đó có Bàn Vương. Để cúng Bàn Vương nhất thiết phải lập đàn cúng riêng. Đó là một chiếc mâm cao khoảng 30 cm trên đó để con lợn cúng, một bát nước, một bát gạo và một ít giấy (tiền của ma) một chai rượu vài cái chén và mấy đôi đũa. Đồng bào còn kê hai chiếc ghế dài song song với nhau ở hai phía đàn cúng. Ba thầy cúng và ba người đàn ông đứng tuổi khác ngồi vào hai ghế đối diện với nhau. Sáu người thay nhau hát những bài cúng. Nội dung của những bài hát đó là kể về sự tích khai thiên lập địa, sự tích nạn hồng thủy….Sáu người này vừa hát vừa ăn uống, thức ăn chỉ có một món là thịt sóc đã sấy khô xào với măng khô. Sau đó ba đôi thiếu niên (ba nam, ba nữ) khoảng 13-14 tuổi, nam chưa cấp sắc, nữ chưa lấy chồng đứng thành hai hàng đối đáp với nhau. Nội dung của các bài hát là kể về công ơn của Bàn Vương. Trong lúc ấy một người phụ nữ trạc tuổi 40-50 ngồi ngay trên bậc cửa ra vào, quay mặt vào nhà cũng hát những bài với nội dung tương tự và cầu mong Bàn Vương phù hộ cho con cháu trong gia đình và gia tộc. Một người đàn ông khác cũng trạc tuổi ấy không hát mà chỉ đứng nghiêm trang trước bàn thờ tổ tiên trong suốt quá trình nghi lễ ấy.
¯Lễ tiễn đưa.
Làm xong lễ cúng Bàn Vương , các thầy cúng bắt đầu đốt giấy (vàng mã nếu có) và làm lễ tiễn đưa Bàn Vương, gia tiên và các thần thánh về thế giới bên kia. Tất cả mọi người theo thầy chủ đám ra tận sân nhà, sáu thiếu niên lại hát những bài tiễn đưa.
Kể từ lúc bắt đầu cho đến khi kết thúc nghi lễ người ta phải kiêng kị nghiêm ngặt. Không phải chỉ có các thầy cúng, mà tất cả mọi người trong buổi lễ phải ăn chay. Đồng bào kiêng mắng chửi nhau, vợ chồng phải cách ly không được ăn làm với nhau, nam nữ không được ngồi lẫn lộn….
5.Múa và nhạc cụ dân gian.
5.1.Múa.
- Múa cấp sắc: có ở chín nhóm Dao.
- Múa màng, múa cầu mùa của các nhóm Dao Đỏ, Dao Tiền ở Nà Hang, Chiêm Hoá, Hàm Yên.
- Múa tết nhảy, múa kiếm của các nhóm Quần Chẹt, Dao Tiền ở Sơn Dương và Yên Sơn.
- Múa bắt ba ba trong lễ tết nhảy phản ánh công việc của người Dao Tiền và Dao Quần Chẹt.
- Múa vui ngày tết có điệu múa đẵn gỗ, xúc tép động tác mạnh, dứt khoát phản ánh lao động sản xuất.
5.2.Nhạc cụ dân gian.
- Trống: Có hai loại:
trống con(dồ náng) trống tang sành(dồ đao).trống con có ở 9 nhóm dao, cấu tạo tang gỗ hình trụ đường kính 20-40 cao 20-30cm phần giữa tang trống phình to hơn 2 đầu,hai mặt trống bịt da thú hoặc da trâu bò,để vừa bền dẻo vừa tạo âm tốt, dùi trống làm bằng gỗ chắc, nặng.Trống Tang sành còn gọi là trống dài,chỉ có ở nhóm Dao áo Dài và Dao quần Trắng.Trống dài từ 40-60cm,tang trống bằng sành,hai đầu loe đường kính 30-40cm,để bịt da thú,giữa thân trống thót lại theo quan niệm của đồng bào Dao rất linh thiêng, tiếng trống phát ra có thể thấu đến thần linh.
- Chuông:làm bằng đồng cao 10cm, đầu loe có đường kính 5-6cm,phía trong có thanh sắt nhỏ linh động, để khi lắc thì va đập vào vỏ chuông tạo âm thanh.Phía bên ngoài có thanh cầm dài khoảng 7-10cm. Thầy cúng thường lắc chuông lúc múa.
- Kèn:bằng đồng hay gỗ có 3 phần:loa, thân ken, lỗ thổi.
- Chũm Choẹ: có 2 loại:chũm choẹ nhỏ là chũm choẹ cái,loại to là đực,được đúc bằng đồng,đường kính 10-15cm loại nhỏ và loại to là 30-35cm,mỗi chũm choẹ có 2 chiếc giống hình 2 con ba ba úp bụng vào nhau,tâm mặt trong mỗi nửa chũm choẹ có chỗ lõm sâu đường kính 5-6cm,mặt ngoài có núm tròn lồi ra để cầm cho chắc.
- Thanh La:đức từ đông hình trụ, cao 4-5cm, một mặt trống có dây sách và dùi gỗ,đường kính mặt 20-30cm,ở tâm có điểm nổi để gõ,thanh la dùng để đệm cho trống.
- Tù và:là chiếc sừng trâu có dáng đẹp khoét thủng lỗ phía đầu nhọn để thổi.
6.MỸ THUẬT:
- Tranh vẽ: cũng giống như các điệu múa và tranh vẽ của người Dao,chỉ các thầy cúng mới có và chỉ dùng trong việc thờ cúng tổ tiên,các lễ cúng lớn,các đám ma đám chay.Có một số tranh như sau: tranh thờ tổ tiên có tranh "vua bếp",các cảnh sinh hoạt gia đình bên bếp lửa,tranh tứ trực công tào vẽ 4 vị thần tượng trưng các ngôi sao trong các giwof chính của một ngày đêm dùng trong lễ cấp sắc, làm ma. Tranh cúng BÀ Vương có 3 loại: tranh vẽ các thần ở Thượng nguyên(trên trời),có tranh Tam Thanh,Tranh Ngọc Hoàng thượng đế,tranh Trương Thiên Sư và Lý Thiên Sư,tranh tứ đại Nguyên Sư,tranh Bắc Đẩu tinh quân,tranh vẽ các vị thần ở trung nguyên,tranh đương kim hoàng đế, tranh vẽ các vị thần ở cõi hạ nguyên: tranh địa tạng vương,thập điện diêm vương.


           

1 nhận xét: