Thứ Tư, 17 tháng 7, 2013

H MÔNG

    

                                     DÂN TỘC HMÔNG



I.                           Đặc điểm chung

1.              Sự phân bố cư dân và lịch sử

              Người Hmông hay còn gọi người Mèo (tên gọi trước năm 1979) là một trong bảy dân tộc thiểu số tương đối đông ở miền Bắc nước ta, có khoảng 760 nghìn người, sống chủ yếu ở vùng cao thuộc các tỉnh Hà Giang, Lào Cai, Sơn La… Trong các tỉnh người Hmông cư trú xen kẽ với nhiều dân tộc anh em khác, nhưng không giống với nhiều dân tộc như Dao, Lôlô, Pu péo…, họ ở tập trung thành từng vùng rõ rệt, trong đó người Hmông chiếm tỉ lệ dân số cao so với các dân tộc anh em cùng chung sống. Những khu vực tập trung đông người Hmông ở miền Bắc nước ta là: cao nguyên Đồng Văn, Bắc Hà - Mường Khương, Sa Pa – Phong Thổ - Sìn Hồ - Tủa Chùa, Điện Biên và các khu vực tiếp giáp của các huyện Thuận Châu và Tuần Giáo. Những vùng cư trú của người Hmông không gắn liền với nhau thành một dải, mà thường bị ngăn cách bởi nhiều khu vực cư trú của các dân tộc, nhưng trong quan hệ dòng họ và hôn nhân, nhân dân các vùng nhất là các vùng tiếp giáp nhau còn những mối liên hệ nhất định.

               Các vùng cư trú của đồng bào Hmông thường là những sườn núi có độ cao trung bình từ 800m đến 1500 – 1700m trên mặt biển, địa hình hiểm trở, vách đá dựng đứng trên những thung lũng dạng hẻm vực. Ở Tây Bắc địa hình cao hơn và sự chia cắt theo chiều đứng mạnh hơn so với Đông Bắc.

               Ở dộ cao từ 800 – 1700m, khí hậu người Hmông nằm trong khí hậu cận nhiệt đới, nhiệt độ trung bình hàng năm từ 150C – 200C. Lượng mưa hàng năm từ 2000 – 3000 mm, nhưng ở những nơi khuất gió lượng mưa chỉ độ 700 mm. Đặc điểm độ mưa là: một mùa mưa, một mùa khô mà trong mùa khô lượng mưa hàng tháng chỉ vài chục mm hoặc có khi không mưa nên thường thiếu nước.

               Đất ở vùng người Hmông nằm trên khu đất latêric có mùn. Trên vành đai này ở những nơi rừng ít bị tàn phá thì thực vật còn nhiều, các cây rụng lá tăng lên, do đó tỉ lệ mùn đạt từ 5 – 8%. Vì có nhiều mùn nên đất màu xám, ở phía dưới đất màu nâu.

                Kiểu rừng rậm cận nhiệt đới, ẩm ướt thường thấy trên núi Bắc Thái, Cao Bằng, Lạng Sơn, Lai Châu…song rừng đẫ bị tàn phá nhiều, thoái hóa thành rừng thứ sinh hoặc xavan và mỗi vùng có đặc điểm riêng. Tuy nhiên vẫn chưa hết những cánh rừng nhiều thứ gỗ quí, nhiều loại thú ăn thịt và các loài ăn cỏ…
Với tinh thần lao động cần cù và sáng tạo người Hmông biến nhiều vùng cao miền Bắc nước ta thành nơi có thể sinh sống ngày càng giàu đẹp, thành quê hương thân yêu của mình.

                 Đại bộ phận người Hmông ở nước ta tự gọi là Mống, một nhóm người khác tự gọi là Ná Mảo. Mống cũng là tên tự gọi người Mèo ở Lào, Thái Lan và ở Xuyên, Kiềm, Diên Nam Trung Quốc. Ngoài ý nghĩa chỉ cộng đồng tộc người Mống còn là từ gọi dòng họ.

               Mèo là tên gọi có nguồn gốc lịch sử lâu đời, theo một số nhà nghiên cứu Mèo là tên dùng để gọi những người sớm biết trông lúa ở vùng hồ Bành Lãi và hồ Động Đình và sau đó đã trở thành tên gọi chính thức.

              Dựa vào một số đặc điểm dân tộc học có thể phân người Hmông ở nước ta thành các nhóm: Trắng(Mông Đơ), Hoa(Mông Lềnh),Xanh(Mông Dua), Đen(Mông Đú).

               Người Mèo được coi là con cháu của một trong những dân cư bản địa cổ ở Nam Trung Quốc. Sự gần gũi giữa tiếng Mèo và tiếng Dao được nhiều người giải thích bằng nguồn gốc chung của hai dân tộc này trong thời cổ đại. Từ thêa kỉ XII đến thế kỉ IX , người Mèo và người Dao bắt đầu tách thànhnhững cộng đồng tộc người riêng. Từ thế kỉ IX đến thế kỉ XVI , người Mèo phải thường xuyên đi về phía Nam, Tây Nam và Đông Nam để tránh sự bóc lột của bọn phong kiến. Trong các thế kỉ đó người Mèo ở Qúy Châu tương đối đông. Từ thế kỉ XVII đến thế kỉ XX dưới sự thống trị của nhà Mãn Thanh, chế độ thổ ty cha truyền con nối có từ thời Minh đã được thay bằng chế độ bổ nhiệm , làm tăng thêm mâu thuẫn giữa người Mèo, các dântộc thiểu số với bon thống trị. Mâu thuẫn sâu sắc trong xã hội được thể hiện rõ trong các phong trào nổi dậy của quần chúng, đặc biệt trong cuộc khởi nghĩa Thái Bình Thiên Quốc, người mèo đã tham gia khá đông. Dưới thời Quốc dân đảng người Mèo cũng không tránh khỏi bị áp bức nặng nề và phải đấu tranh không ngừng.

                Từ Tây Nam Trung Quốc , Người Mèo đã di cư đến Việt Nam trong những thời gian và những đợt khác nhau. Nguyên nhân của những đợt di cư đã nói là sự mong muốn thoát khỏi tình trạng áp bức bóc lột của bon địa chủ phong kiến, muốn thoát khỏi sự tàn sát sau những cuộc phản kháng, muốn có nơi sinh sống tốt hơn. Những đợt di cư đầu tiên của người Mèo cách đây trên 300 năm đến các vùng biên giới thuộc tỉnh Hà Tuyên, Hoàng Liên Sơn. Sau đó các luồng di cư cứ kéo dài mãi đến ngày Trung Quốc hoàn toàn giải phóng năm 1950, trong đó có hai cuộc di cư lớn vào khoảng hơn 200 năm và 100 năm trước đây. Hầu hết người Mèo nước ta còn nhớ là họ đã từ Quí Châu đến Việt Nam.

               Lịch sử thiên di của người Mèo cũng là lịch sử đấu tranh không ngừng chống phong kiến áp bức dân tộc. Đến Việt Nam họ mong muốn có cuộc sống ổn định và ấm no hơn.

                Nhưng ở đây họ cũng không thoát khỏi ách áp bức bóc lột, nhất là từ lúc thực dân Pháp xâm lược đặt ách thống trị. Bởi vậy nhiều cuộc đấu tranh của người Mèo đã nổ ra: Cuộc đấu tranh chống phu, thuế của đồng bào Mèo tỉnh Cao Lạng(1904), cuộc đấu tranh của đồng bào Mèo ở cao nguyên Đồng Văn tỉnh Hà Tuyên(1911-1912), cuộc đấu tranh của đồng bào Tủa Chùa tỉnh Lai Châu chống chính quyền phong kiến(1914)… Đặc điểm của những cuộc đấu tranh đều là đấu trnh vũ trang với tinh thần dân tộc cao với mục tiêu đấu tranh cụ thể: “ Không đi phu, không nộp thuế, tự do chuyên chở muối và thuốc phiện” (1911-1912) hay “Quét sạch Tây trắng, chống thuế, giành quyền tự quản” (1918-1922), “Quyết tâm tiêu diệt đồn Bắc Hà” (1886-1897). Vì thế đã nhanh chóng tập hợp được đông đảo quần chúng bao gồm cả già trẻ, trai gái tiến hành đấu tranh vũ trang gây cho địch nhiều thiệt hại . Tinh thần đấu tranh ngoan cường, thực hiện vườn không nhà trống, hi sinh tất cả đã được phát huy mạnh mẽ khi có sự lãnh đạo của Đảng của giai cấp công nhân Việt Nam.

                Từ năm 1936, vùng Mèo ở Nguyên Bình, tỉnh Cao Lạng đã có cơ sở Đảng. Vào những năm 1936-1938 đồng bào đã tham gia các cuộc mít tinh và cử người tham gia đoàn đại biểu về nha chánh sứ Cao Bằng, phủ thống sứ Hà Nội đấu tranh chống phu thuế. Trong những năm 1940-1944, phong trào cách mạng ở vùng Mèo Cao Lạng đã phát triển rộng rãi. Người Mèo đã góp phần quan trọng cho thắng lợi Cách mạng Tháng Tám ở Việt Bắc.

                 Theo lời kêu gọi của Đảng và Hồ Chủ tịch trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược, người Mèo ở khắp mọi nơi đã tích cực tham gia kháng chiến. Dưới sự lãnh đạo của Đảng truyền thống đấu trnh của người Mèo đã trở thành chủ nghĩa anh hùng cách mạng.

              Sau 1950 và năm 1954 trong các cuộc tiễu phỉ, bảo vệ địa phương, đồng bào Mèo ở khắp nơi đã tham gia tích cực. Và chính trong cuộc đấu trnh phức tạp đó đã xuất hiện các anh hùng Giáng Lao Pá và Sùng Dúng Lù. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, nhiều thanh niên Mèo đã ra tiền tuyến, lập nhiều chiến công xuất sắc. Ở hậu phương, dân quân Tủa Chùa, Yên Châu đã bắn rơi hai máy bay Mỹ và bắn thương nhiều chiếc khác. Mùa A Páo ở Sìn Hồ tỉnh Lai Châu đã được phong là anh hùng trong giai đoạn đấu tranh này.

2.                     Đặc điểm kinh tế

               Nguồn sống chính của đồng bào Hmông là làm nương rẫy du canh, trồng ngô, trồng lúa ở một vài nơi có nương ruộng bậc thang. Cây lương thực chính là ngô, lúa nương, lúa mạch. Ngoài ra còn trồng lanh để lấy sợi dệt vải và trồng cây dược liệu. Chăn nuôi gia đình của người Hmông có chó, gà, trâu, bò, ngựa. Xưa kia người Hmông quan niệm: chăn nuôi là việc của phụ nữ, kiếm thịt trong rừng là việc của đàn ông.

3.                     Tổ chức cộng đồng

                 Đồng bào Hmông cho rằng những người cùng dòng họ là anh em cùng tổ tiên, có thể đẻ và chết trong nhà nhau, phải luôn luôn giúp đỡ nhau trong cuộc sống, cưu mang nhau trong nguy nan. Mỗi dòng họ cư trú quây quần thành một cụm, có một trưởng họ đảm nhiệm công việc chung.

4.                     Hôn nhân gia đình

                 Hôn nhân của người Hmông theo tập quán tự do kén chọn bạn đời. Những người cùng dòng họ không lấy nhau. Người Hmông có tục “háy pù”, tức là trong trường hợp trai gái yêu nhau, cha mẹ thuận tình nhưng kinh tế khó khăn, trai gái hò hẹn nhau tại một địa điểm. Từ địa điểm đó bạn trai dắt tay bạn gái về làm vợ. Ngoài ra còn có tục “cướp vợ”. Vợ chồng người Hmông rất ít bỏ nhau, họ sống với nhau rất hòa thuận, cùng làm ăn, cùng lên nương, xuống chợ và đi hội hè…

5.                 Văn hóa

                 Tết cổ truyền của người Hmông tổ chức vào tháng 12 âm lịch. Trong 3 ngày Tết họ không ăn rau xanh. Nam nữ thanh niên vui xuân thường thổi khèn gọi bạn. Nhạc cụ của người Hmông có nhiều loại khèn và đàn môi. Sau một ngày lao động mệt mỏi, thanh niên dùng khèn, đàn môi gọi bạn tình, ca ngợi vẻ đẹp của cuộc sống, quê hương, đất nước…
6.                     Nhà cửa

                  Nhà có những đặc trưng riêng, thường là ba gian không có chái. Bộ khung bằng gỗ, vì kèo kết cấu đơn giản, chủ yếu là 3 cột có một xà ngang kép, hoặc 2 xà ngang một trên một dưới. Về tổ chức mặt bằng sinh hoạt: khá thống nhất giữa mọi nhà. Nhà ba gian, gian chính giữc giáp vách hậu bao giờ cũng là nơi đặt bàn thờ tổ tiên. Gian này còn là nơi dành cho ăn uống hàng ngày. Một gian đầu hồi dành cho sinh hoạt của các thành viên nam và khách nam, ở đây thường có bếp phụ. Còn gian đầu hồi bên kia dành cho sinh hoạt nữ, đồng thời cũng là nơi đặt bếp chính. Bếp của người Hmông thuộc loại bếp kín - bếp lò - một sản phẩm của phương Bắc. Chuồng gia súc đặt trước mặt nhà. Riêng nhà của người Hmông ở Thuận Châu, Mộc Châu Sơn La lại có đặc trưng riêng. Vẫn là nhà đất nhưng làm theo hình thức nóc của người Thái Đen. Nóc hình mai rùa nhưng không có khau cút. Bộ khung nhà, có người cũng làm theo kiểu Thái. Duy có cách bố trí trong nhà vẫn giữ được nét cổ truyền của người Hmông.

7.                     Trang phục

                Quần áo chủ yếu của người Hmông may bằng vải lanh tự dệt. Đậm đà tính cách tộc người trong tạo hình và trang trí với kĩ thuật đa dạng.

-Trang phục nam: Nam thường mặc áo cánh ngắn ngang hoặc dưới thắt lưng, thân hẹp, ống tay hơi rộng, áo nam có 2 loại: năm thân và bốn thân. Loại bốn thân xẻ ngực, hai túi trên hai túi dưới. Loại năm thân xẻ nách phải dài qua mông. Loại bốn thân thường không trang trí, loại năm thân trang trí những đường vằn ngang theo ống tay. Quần nam giới là loại chân què ống rất rộng so với các tộc trong khu vực. Đầu thường chít khăn, có nhóm đội mũ xung quanh có đính những hình tròn bạc chạm khắc hoa văn, có khi mang vòng bạc cổ có khi không mang.

- Trang phục nữ: Người Hmông có nhiều nhóm khác nhau,trang phục nữ các nhóm cũng có sự khác biệt. Tuy nhiên nhìn chung phụ nữ Hmông thường mặc áo bốn thân, xẻ ngực không cài nút, gấu áo không khâu hoặc cho vào trong váy. Ống tay áo thường tang trí hoa văn những đường vằn ngang từ nách đến cửa tay, đường viền cổ và nẹp hai thân trước được trang trí viền vải khác nhau( thường là đỏ và hoa văn trên nền chàm). Phụ nữ Hmông còn dùng áo xẻ nách phải trang trí cổ, hai vai xuống ngực giữ và cửa ống tay áo. Phía sau gáy thường được đính miệng và trang trí hoa văn dày đặc bằng chỉ ngũ sắc. Váy phụ nữ Hmông là loại váy kín, nhiều nếp gấp, rộng, khi xòe ra có hình tròn. Váy là tiêu chuẩn nhiều người đã dựa vào để phân biệt các nhóm Hmông. Đó là các loại váy trắng, váy đen , váy in hoa, vẽ sáp ong kết hợp thêu. Váy được mang trên người với chiếc thắt lưng vải được thêu trang trí ở đoạn giữa. Khi mặc váy thường mang thêm tạp dề, tạp dề mang trước bụng phủ xuống chân là giao thoa giữa miếng vải hình tam giác và chữ nhật, phần trang trí hoa văn là miếng vải hình tam giác cân phía trên, miếng hình chữ nhật là màu chàm đen, kích thước tùy từng bộ phận người Hmông. Phụ nữ thường để tóc dài quấn quanh đầu, có một số nhóm độ khăn quấn thành khối cao trên đầu. Đồ trang sức bao gồm khuyên tai, vòng cổ, vòng tay, vòng chân, nhẫn.

II.              Hoạt động kinh tế

1.                         Sản xuất nông nghiệp

                Tuy có một số ít ruộng nước, nhưng nguồn sống chính của người Hmông vẫn là nương rẫy. Có hai loại nương: nương định canh( thổ canh ) và nương du canh là chủ yếu. Trên ruộng nương ngoài ngô lúa là cây trồng chính còn có mạch, ý dĩ, khoai, rau, lạc, đậu, vừng…, lanh là cây trồng phổ biến để dệt vải. Các cây đặc sản và cây ăn quả cũng phát triển.

                Do xu hướng thâm canh tăng năng suất và định canh định cư, từ lâu đồng bào Hmông đã phát triển ruộng bậc thang trên các sườn núi như ở các huyện Mù Cang Chải, Trạm Tấu, Tủa Chùa, Sapa, Đồng Văn, Mèo Vạc…,và trong những năm qua do công tác thủy lợi được tăng cường, ruộng bậc thang đã dần dần được khai phá thêm nhiều. Ruộng thường được cày ải, bừa kĩ, bón phân và cây trồng được làm cỏ hai, ba lượt. Việc chọn giống mặc dù chỉ theo thói quen thông thường nhưng có trường hợp đã chọn được giống lúa tốt, thích hợp với điều kiện thiên nhiên địa phương. Lúa thường đạt 15 – 20 tạ/ha một vụ. Ngoài ra trên ruộng vào vụ đông xuân, đồng bào còn trồng thuốc phiện mà thu hoạch cũng đáng kể. Trong những năm qua đồng bào ít trồng thuốc phiện, nên đồng bào phát triển xu hào giống, đậu tương xuân.

               Ở những nơi đất tương đối bằng, nhưng không có điều kiện biến thành ruộng bậc thang, đồng bào đã tạo thành nương thổ canh để có thể trồng trọt được lâu dài. Giống với việc sử dụng ruộng nước,vụ xuân hè trồng cây lương thực( ngô ), vụ đông xuân trồng hoa màu hay cây đặc sản. Năng suất các cây trồng tương đối cao và ổn định.

                Vì sản xuất trên ruộng và nương thổ canh chưa đảm bảo được những nhu cầu sinh hoạt, nên đồng bào cũng phải làm nương du canh, chỉ trồng được 2, 3 vụ là bỏ. Việc chọn đất thường được tiến hành từ trước tết theo những kinh nghiệm cổ truyền và đất đã được lựa chọn đánh dấu quyền chiếm hữu theo những qui ước chung. Sau đó nương được phát vào tháng chạp hay tháng giêng, tháng hai và đốt , dọn vào tháng 3, chuẩn bị cho trồng trọt.

                 Hầu hết nương của đồng bào Hmông dù là nương có độ dốc cao, nhiều đá đều là nương cày. Cày có thể cày sâu từ 0m15 đến 0m20. Cũng như ruộng nương được cày ải từ trước tết và bừa nhiều lần. Nương cày ải được coi là diệt được cỏ dại. Ngô trồng tháng 3 hay 4 dương lịch. Khi trồng có bón lót, khoảng cách giữa các hốc ngô là thưa để còn trồng xen canh các loại đậu: đậu vàng, đậu hà lan, đậu nhỏ…Lúa trồng theo hốc hoặc quãi. Trên nương lúa thường trông xen các loại bí, các loại rau xanh. Việc trồng xen canh đã trở thành tập quán, không những để có thêm thực phẩm mà còn làm cho đất tốt. Ở nhiều nơi xung quanh nương được bao bọc bởi những luống ý dĩ. Sau khi thu hoạch vụ hè thu người ta còn trồng đậu răng ngựa, mạch ba góc vụ đông. Các cây trồng đều được làm cỏ 2, 3 lượt. Năng suất lúa, ngô nương có thể đạt từ 1,2 – 1,5 tấn/ha, không kể rau, đậu cũng thu hoạch được một số đáng kể. Đậu tương và cô ve mỗi năm trông hai vụ, còn đậu vàng có thể trồng ba vụ. Các loại đậu cũng có vị trí quan trọng trong đời sống và đồng bào đã có truyền thống trồng đậu lâu đời. Các loại cây có củ cũng được trồng nhiều.

                Miền núi tuy đất rộng người thưa nhưng không phải chỗ nào cũng có thể làm nương được và người ta cũng không thể chạy theo nương mãi. Vì vậy ở một số nơi đồng bào đã làm nương theo chế độ luân khoảnh kết hợp với bảo vệ rừng, trồng rừng. Cùng với việc tạo ruộng, nương bậc thang, cách sử dụng đất như vậy cho phép đồng bào có thể định canh định cư tốt.

                Trong các loại cây công nghiệp, lanh là cây trồng phổ biến, chiếm một diện tích khá lớn. Trừ nhóm Hmông Xanh với dân số không đông lắm thường trồng bông dệt vải, tất cả các nhóm Hmông đều trồng lanh. Vải lanh dùng làm váy, may quần áo, khâu bao đựng bột, làm mặt chăn…Người chết phải có áo ngoài bằng lanh, theo quan niệm của đồng bào, thì mới được về đoàn tụ với tổ tiên. cây lanh sau khi chặt( vào tháng 6) được phơi khô, tước lấy vỏ và từ vỏ lanh làm thành những sợi dệt. Việc này đòi hỏi nhiều thời gian nên người phụ nữ lúc nào cũng có vỏ lanh quanh mình để trnh thủ tước sợi trong lúc nghỉ lao động sản xuất, lúc đi đường hay họp chợ để có thể dệt xong vào tháng 12. Tuy vậy mỗi năm một người có thể làm được 4, 5 tấm lanh mỗi tấm dài 20 vuông khổ nhỏ đủ may một váy đẹp.

               Trước đây người Hmông được coi là một dân tộc trồng nhiều thuốc phiện nhất ở Việt Nam, thuốc phiện là cây trồng có tầm quan trọng trong đời sống của họ. Các loại cây tam thất, xuyên khung, đẵng xâm ngày càng phát triển. Trồng các cây này đòi hỏi một số khă năng trong làm đất, gieo trồng, chăm sóc, thu hái. Do khó trồng, tuy tam thất có giá trị cao nhưng vẫn chưa được phát triển mạnh.

              Các loại cây ăn quả: táo, đào, lê, nhiều loại mận ngon từ lâu đã nổi tiếng ở vùng Hmông. Trong những năm qua trên Đồng Văn, tỉnh Hà Tuyên đã trồng nhiều táo quả to, đạt được những kết quả tốt. Tuy nhiên hiện nay các loại quả đó chưa trở thành mặt hàng quan trọng ở thị trường và vận chuyển khó khăn, số lượng chưa nhiều.

2.                              Chăn nuôi.

                Trên vùng cao, vùng Hmông là nơi chăn nuôi gia đình: trâu, bò, lợn, gà, ngựa…tương đối phát triển. Trong sản xuất không thể thiếu sức kéo, trong sinh hoạt rất cần ngựa thồ, cho nên việc nuôi trâu, bò, ngựa không chỉ phát triển mà được chăm sóc rất chu đáo. Ai không nuôi lợn đều bị coi là không phải người Hmông. Mỗi gia đình đều nuôi từ 5, 7 đến 10, 20 con lợn, mỗi gia đình người Hmông đều nuôi từ 30 – 40 đến 100 con gà. Lợn gà chủ yếu dùng cho sinh hoạt gia đình.

3.            Hoạt động săn bắn, hái lượm

                Ở một số nơi, việc thu hái lâm thổ sản có vị trí quan trọng. Đồng bào thường thu hái: củ gấu, thảo quả, hà thủ ô, hoang liên, cánh kiến, chè… là những thứ có giá trị hàng hóa cao. Ngày nay cánh kiến ngày càng thu được nhiều khi việc làm có kế hoạch hợp lý.

                Tại những nơi như Tây Bắc, Nghệ Tĩnh và phía bắc Hoàng Liên Sơn săn bắn được chú ý. Tuy súng kíp rất phổ biến nhưng đồng bào vẫn làm bẫy, có nhiều kinh nghiệm làm bẫy giết hổ rất tốt. Căn cứ vào bước đi của hổ người ta đặt súng ở độ cao để khi súng nổ, đạn bao giờ cũng xuyên ngực con thú. Người đàn ông Hmông có khả năng săn bắn.

8.                              Sản xuất thủ công nghiệp

                Thủ công nghiệp gồm các nghề: đan đồ lan, làm đồ da ngựa, làm đồ gỗ, dệt vải, làm giấy bản, làm đồ trang sức bằng bạc, rèn đúc nông cụ, vũ khí…Trừ một số nơi, một số nghề có người chuyên làm quanh năm, đại đa số các nghề đều do người nông dân làm trong lúc sản xuất nông nghiệp cho phép. Những đồ dùng đồng bào tự làm phù hợp với yêu cầu của địa phương, người Hmông đã rèn được nhiều loại công cụ tốt, không những sử dụng cho sản xuất nông nghiệp, làm đồ gỗ mà còn dùng để chế tạo các công cụ bằng sắt khác như: sửa lại dao, khoan nòng súng…làm những thùng lớn cao ngang vai người, đường kính miệng thùng rộng hàng mét dùng để nhuộm vải, làm những chậu gỗ tiện tròn có trục giữa để rửa chân, hoặc những môi thìa xúc cơm đẹp. Nghề làm đồ trang sức thường sản xuất: vòng cổ, vòng tay, khuyên tai, nhẫn… có hoa văn trên mặt. Đồ dùng bằng nan thường là địu, đồ đựng cơm, vung chảo. Các mặt hàng thủ công thấy bán thường xuyên ở các chợ phiên. Và những người thợ giỏi rất có uy tín trong quần chúng.

                Ở đại đa số các vùng Hmông việc trao đổi hàng hóa chủ yếu trong các chợ phiên.Chợ, 6 ngày họp một lần, không những là nơi mua bán những thứ cần thiết mà cũng là nơi gặp gỡ của những người bạn thân và nam nữ thanh niên.
III.                    VĂN HOÁ VẬT THỂ
I, NHÀ NGƯỜI HMÔNG (MÈO)
Người Hmông là chủ nhân của vùng cao, cư trú ở Hà Giang, Tuyên Quang, Yên Bái, Lai Châu, Sơn La, Hoà Bình….& 1 số nhỏ ở Thanh - Nghệ. Người Hmông có nhiều nhóm địa phương với các tên gọi khác nhau: Hmông trắng, Hmông  xanh, Hmông đỏ, Hmông hoa…
Người Hmông sống chủ yếu bằng nương rẫy nhưng đã dùng cày. Cây lương thực chính là ngô & tam giác mạch. Họ có nhiều kinh nghiệm trong việc trồng cây thuốc phiện. Nghề phụ có nghề rèn là tiến bộ hơn cả, sau đó là nghề làm thùng, chậu bằng gỗ samu.
Người Hmông ăn uống khá đạm bạc, món chính là bột ngô đồ ăn với canh rau rừng lạt muối.
Trang phục nam nữ đều dệt bằng sợi lanh. Bộ nữ phục được may, thêu, chắp vải màu rất công phu. Mỗi nhóm Hmông có bộ nữ phục riêng rất độc đáo mang sắc thái riêng để phân biệt các nhóm. Các bé gái sớm được dạy cách se lanh, dệt vải, may cắt, thêu thùa để tự làm lấy bộ đồ mặc của mình.
Người Hmông ở nhà đất làm khá sơ sài, riêng người Hmông ở Thuận Châu & 1 số huyện ở Sơn La vẫn là nhà đất nhưng mái lại làm giống nhà người Thái đen.
Dưới chế độ cũ, xã hội Hmông do 1 tầng lớp thống trị với các chức từ thấp đến cao như: chà thầu, chống chà, chống quán, chống lí. Chế độ này tồn tại đến cách mạng tháng 8.

NHÀ NGƯỜI MÈO Ở ĐỒNG VĂN – HÀ GIANG
1, Làng bản:
Người Mèo sống chủ yếu ở rẻo cao. Nếu có xuống thấp thì cũng là vùng cao của rẻo giữa. Làng bản của đồng bào tuỳ thuộc vào điều kiện canh tác & thế đất nên có diện mạo khác nhau. Có làng nhà cửa rất tập trung, hầu như nhà nọ liền kề nhà kia. Có làng, nhà cửa lại rất thưa thớt. Các nhà trong làng thường không theo một quy hoạch nào, tuỳ theo ý thích của các chủ nhân.
Người Mèo ít sống xen ghép với các cư dân khác tộc. Trong mỗi làng thường các dòng họn sống quây quần bên nhau trên một khu đất nhất định.
Bản Phố Chồ, xã Sủng Là, huyện Đồng Văn là một ví dụ. Bản này có 4 họ ở thành 4 khu vực riêng.
Ở một số địa phương gần đường biên giới Việt Trung, xưa kia có nhiều trộm cướp nên các bản Mèo ở đây được xây dựng theo kiểu làng “phòng thủ”. Xung quanh làng có một vòng rào xây bằng đá rất kiên cố. Một trong những kiểu làng như thế, ngày nay hãy còn là Bản Chéo Sà Phìn thuộc xã Sà Phìn. Làng này có gần 20 nóc nhà, người ta đã xây dựng một vòng rào bằng đá khá kiên cố. Kiểu làng phòng thủ này xem ra lợi hại hơn kiểu làng trên.
2, Nhà cửa:
Theo những người già cho biết thì từ xa xưa, người Mèo vẫn ở nhà đát. Đến nay cũng như vậy chưa có một nơi nào đồng bào ở nhà sàn.
Nhà người Mèo phổ biến là 3 gian hoặc 3 gian có thêm chái. Nhà người Mèo ở Hà Giang được làm khá chắc chắn vì đã biết dùng mộng. Còn ở các nơi khác mặc dù nhà khá to nhưng chưa được vững chắc vì chủ yếu là dùng ngoãn & buộc lạt.
Mái lợp cỏ tranh, ngói âm dương hay ván xẻ. Tường vách thường bằng ván xẻ, bằng liếp nứa, cỏ tranh. Nhà trình tường hay tường xếp bằng đá chỉ có ở những nơi gần biên giới. Tường trình rất dày có khi tới 70-80cm. Nền nhà khá cao (80-100cm) xung quanh được kè bằng đá.
Kết cấu bộ khung nhà:
Bộ khung nhà người Mèo được hình thành trên cơ sở các vì kèo. Vì kèo cơ bản là kiểu “vì kèo 3 cột”. Hai cột con hai bên & cột cái ở giữa, đầu chống lên các nóc. Để liên kết các cột với nhau, ngoài hai kèo còn có xà ngang. Xà ngang của nhà người Mèo phổ biến là xà kép (một trên một dưới ghép sát vào nhau). Còn các vì kèo được liên kết với nhau nhờ hệ thống xà dọc.
-         Một dạng khác, tuy vẫn là vì kèo 3 cột nhưng với 2 xà kép và có thêm xà dọc ở chân cột con.
-         Vì kèo 4 cột: vẫn trên cơ sở vì kèo 3 cột nhưng có thêm một cột hiên ở phía trước.
Đó là các kiểu vì kèo phổ biến ở người Mèo. Song cũng có nơi tuy vẫn là kiểu vì kèo 3 cột nhưng không làm xà kép.
Mặt bằng sinh hoạt:
1, Một kiểu mặt bằng sinh hoạt phổ biến hơn cả: nhà 3 gian. Gian hồi bên phải có cửa phụ ở đầu hồi để thông ra ngoài. Bên trong gian này, giáp vách tiền có giường dành cho vợ chồng chủ nhà. Lui về vách hậu là bếp chính. Gian này có vách ngăn & có cửa thông với gian giữa. Cột giữa của vì kèo ngăn giữa gian hồi phải và gian giữa là “cột thiêng” & được coi là cột chính.
Gian giữa, giáp vách hậu là bàn thờ (có nhà chỉ có một mảnh giấy đỏ dán trên vách).
Nơi đây còn có một bộ bàn ăn. Về phía trước giáp vách ngăn với gian hồi bên phải đặt cối xay ngô. Cửa chính mở ở mặt trước nhà. Gian này cũng có vách ngăn, trổ cửa thông với gian hồi bên trái.
Gian hồi trái, giáp vách hậu là giường của khách. Bên cạnh giường khách có bếp phụ. Giáp vách tiền là giường dành cho con trai. Nhà người Mèo còn có gác xép đặt trên xà ngang. Chuồng trâu bò được làm ở trước mặt nhà & chỉ cách nhà vài mét.
2, Một dạng mặt bằng sinh hoạt cũng tương tự như dạng mặt bằng sinh hoạt đã giới thiệu. Song cái khác là gian hồi đặt bếp chính lại ở bên trái nhà & gian giữa giáp vách tiền có đặt giường cho khách.
3, Một dạng mặt bằng sinh hoạt cũng tương tự như trên, chỉ khác là giáp vách tiền của gian giữa được ngăn thành một buồng nhỏ dành cho vợ chồng chủ nhà.
4, Một dạng mặt bằng sinh hoạt nữa trong nhà chỉ có vách ngăn giữa gian hồi bên phải & gian giữa. Còn gian giữa với gian hồi bên trái để thông nhau. Mặt trước nhà có hiên.
Đó là một số dạng mặt bằng sinh hoạt nhà người Mèo ở Hà Giang. Còn ở huyện Mai Sơn, Sơn La, cách bố trí trên mặt bằng sinh hoạt có khác đôi chút: nhà thường có chái, 3 gian chính để thông nhau & trong nhà không thấy có giường dành cho khách. Nếu nhà có khách người ta để khách nằm trên một tấm chiếu hay tấm da bò nơi giáp vách hậu thuộc gian hồi có giường của chủ nhà.
NGƯỜI MÈO Ở THUẬN CHÂU – SƠN LA

Với nhà người Mèo ở huyện Thuận Châu – Sơn La có những điểm riêng mang sắc thái địa phương rất rõ nét. Tuy vẫn là nhà đất nhưng nóc lại hình “mai rùa” giống nóc nhà sàn Thái đen, chỉ khác là không có khau cút.
Kết cấu bộ khung nhà:
Bộ khung nhà của người Mèo Thuận Châu cũng được hình thành trên cơ sở các vì kèo 3 cột nhưng lại là vì kèo 2 cột của nhà người Thái đen – thêm một cột ở giữa.
Còn các kiểu vì kèo khác vốn là vì kèo 3 cột được mở rộng bằng cách thêm một số cột. Nhưng những vì kèo như vậy người ta lại thường trốn một số cột để đỡ vướng. Những kiểu vì kèo này thường là cột kê và được lắp ráp bằng mộng do thợ người Thái hay người Việt làm.
Mặt bằng sinh hoạt:
1, Nhà ở bản Phiêng Ban, xã Long Hẹ, huyện Thuận Châu – Sơn La:
Nhà nóc hình mai rùa, vì kèo 3 cột, xung quanh nhà được bưng bằng ván mỏng. Nền nhà được tôn rất cao và kè bằng những viên đá tự nhiên có đường kính chừng 30-50cm. Nhà được chia thành 2 phần theo chiều ngang, ranh giới là cột thiêng.
Phần nhà bên phải gồm một gian & một chái. Nửa nhà phần trước là 2 phòng nhỏ, một của vợ chồng người con trai cả và phòng của vợ chủ nhà.
Nửa nhà phía sau có hai bếp, chạn bát và cầu để chai lọ cùng các thứ linh tinh.
Phần nhà bên trái gồm 2 gian và một chái. Nửa nhà phía trước thuộc về gian chính giữa có 2 tủ áo và một máy khâu. Tiếp 2 gian bên là phòng riêng của con trai thứ 2 và 3. Nửa nhà sau thuộc về gian chính giữa có bàn ăn, trên vách có bàn thờ tổ tiên. Hai gian bên có giường của chủ nhà và khách, một tủ nhỏ và một bàn nhỏ. Bên ngoài nhà, đầu hồi bên phải có cối giã gạo. Trước nhà có một sân nhỏ cao chừng 1m. Đầu hồi bên trái có ghế dài, phía trước nhà có cối xay ngô. Đằng sau nhà để cày, bừa & một số nông cụ khác.
2, Nhà ở bản Cò Nghè, xã Cò Mạ - Thuận Châu
Nhà này cũng có nóc hình mai rùa, 3 gian 1 chái phụ về phía bên trái. Xung quanh nhà được bưng bằng ván mỏng. Nhà cột chôn với vì kèo 3 cột, kết cấu giống nhà vừa được giới thiệu. Cách bố trí trên mặt bằng sinh hoạt tương tự như ở Phiêng Ban.
Nhà của người Mèo thuộc các xã khác trong huyện này, có cách bố trí trên mặt bằng tương tự như nhau: nhà thường 3 gian 2 chái hay 3 gian 1 chái. Nhà được chia theo chiều ngang, ranh giới là cột thiêng. Một phần dành cho bếp và các buồng nhỏ của vợ chủ nhà & các con. Còn một phần thuộc gian chính giữa đặt bàn ăn, trên vách treo bàn thờ tổ tiên. Các gian bếp, về phía trước và sau đều là các phòng nhỏ dành cho con trai, chủ nhà & khách.
Với cách bố trí trên mặt bằng sinh hoạt như thế, rõ ràng là rất khác với nhà người Thái trong cùng huyện.
Như vậy là những người Mèo ở đây chỉ tiếp thu hình thức của bộ nóc & một vài yếu tố kỹ thuật của vì kèo nhà người Thái. Còn cách bố trí trên mặt bằng sinh hoạt của nhà vẫn giữ lại cốt cách cổ truyền.
II, TRANG PHỤC DÂN TỘC MÔNG
Ở miền núi, dân tộc Mông có khoảng 800.000 người. Từ các thung lũng của miền núi phía bắc, leo ngược lên các triền núi dốc, ở độ cao trên 1000m, ta bắt gặp những bản làng của người Mông, 4 mùa mây mù, sương phủ. Bao quanh bản làng là những vạt rừng thưa, những trảng cỏ, những dãy đồi trọc trơ sỏi đá, những con đường mòn vừa đủ cho người địu gùi, cho ngựa thồ, nằm vắt mình qua các triền núi cheo leo, nối liền các bản làng Mông với nhau và với thế giới bên ngoài.
         Giữa cảnh tĩnh mịch, hoang vu ấy, ta bắt gặp những cô gái, chàng trai người Mông đi chợ, bộ nữ phục với váy, áo, khăn, vòng, ô sặc sỡ, long lánh vòng khuyên, nổi bật lên giữa cái thâm u của rừng núi, làm cho cảnh sắc thiên nhiên bỗng sinh động và ấm áp. Hay giữa các phiên chợ vùng núi, bên cạnh các cô gái Mông: Cô gái Mông Trắng mắc váy trắng tuyền, tay áo ghép nhiều màu, yếm cổ hoa phô sau gáy; các cô gái Mông Hoa, váy xếp nếp xoà đủ 12 màu, áo cài khuy nách, có nẹp hoa ở vai, ở ngực; cô gái Mông Đen quấn vành khăn nhiều nếp nhô cao, váy hoa xúng xính, khuyên tai, vòng bạc đủ bộ, làm mỗi bước đi rung lên thành nhạc.
                   Có được màu sắc phong phú, âm thanh rộn rã của bộ trang phục ấy là cả một đời cần mẫn, trồng lanh, xe sợi, dệt vải, nhuộm màu, thêu thùa của bàn tay người phụ nữ.


1, Quá trình tạo ra trang phục
     Khác với những tộc người ở thung lũng hay lưng chừng núi, người Mông dệt vải từ sợi cây lanh là chính chứ không phải sợi bông. Công việc trồng lanh, chế biến sợi và dệt vải là của phục nữ.
     Gia đình Mông nào cũng có một nương trồng lanh. Đất trồng lanh phải là đất tốt, độ phì cao, thường ở ven chân núi hay trong các thung lũng nhỏ, được chiếu sáng cả ngày. Đất trồng lanh phải được cày ải, làm cỏ, bón phân trước khi gieo. Người Mông sinh sống ở đỉnh núi cao thuộc những vùng có điều kiện tiểu khí hậu sai biệt nhau, nên thời vụ trồng và thu hoạch lanh có thể xê dịch sớm muộn đôi chút, sao vừa tránh mưa nhiều, nhất là mưa đá, lại vừa tránh gió mùa rét sẽ ảnh hưởng tới chất lượng sợi lanh. Ở tỉnh Lào Cai, Yên Bái, người Mông thường trồng lanh vào tháng 4 âm lịch và thu hoạch sau đó từ 3-4 tháng. Ngoài khâu cày xới cần có bàn tay nam giới, còn việc gieo trồng, chăm bón hoàn toàn do phụ nữ đảm nhiệm, thậm chí có việc đàn ông không được tham gia.
Lanh đã tới độ thu hoạch, người ta cắt buộc lại từng bó đem về phơi khô trong khoảng từ 10-15 ngày, sau đó tước lấy vỏ(tớ). Công việc này phải làm trước khi có các đợt gió mùa đông bắc, nếu gặp gió, lanh sẽ bị khô sợi, giảm độ bền, sợi nát, khó nối.
     Sau khi làm cho vỏ ngoài bong ra, người ta chia đều lanh thành những chùm sợi đều nhau, đem giã cho sợi mềm và xơ, sau đó tước ra từng sợi, nối lại với nhau, cuộn thành từng cuộn to. Từng cuộn sợi lanh này được ngâm với nước tro bếp, luộc chín cho bong hết vỏ xanh, giặt sạch, sau đó lại đun  lại lần nữa với nước hoà sáp ong khoảng 4-5h, sau đó vớt ra và để ráo nước, dùng đoạn gỗ tròn chà lăn trên cuộn sợi lanh tới lúc nào sợi lanh thẳng, sạch và bóng là được. Thứ sợi lanh trắng và sạch ấy gọi là , đủ để xe thành sợi trước khi đưa lên khung dệt.
     Từ phải qua một số khâu chế biến để thành sợi dệt. Trước hết xé được cuộn lại thành những cuộn tròn bằng một dụng cụ gọi là khẩu lỳ kho, rồi sau đó, sợi lại được thả vào một cái thùng gỗ, theo từng lớp một cho khỏi rối. Từ thùng, sợi được kéo bằng cái xa thành các con chỉ. Một lần nữa các con chỉ này lại được cuộn vào các ống nứa thông qua một hệ thống bánh quay và ròng rọc.
     Khung dệt của người Mông là một bước cải tiến giữa khung dệt của các dân tộc Môn-Khơme, Nam Đảo và khung dệt của người Thái, Tày, Mường. Khi dệt, người phụ nữ ngồi cạnh khung, buộc đầu dây ở trục cuộn vải vào lưng, chân đạp bàn đạp làm go phụ tách sợi dọc ra, lấy tay đẩy thoi đan sợi ngang qua lại, kéo go chính dập cho sợi khít lại. Loại khung dệt này chỉ dệt được khổ vải trên dưới 40cm, năng suất dệt thường thấp, một cái váy phải dệt hàng năm mới xong.
       Vải dệt xong, được nấu trong nước tro bếp sao cho thật sạch, trắng, rồi nấu với sáp ong để hồ vải cho cứng và bóng. Vải lanh sau khi nấu với sáp ong lại phải qua khâu lăn vải giữa bàn đá và khúc gỗ, tới khi vải trông bóng, mịn thì đem nhuộm chàm.
       Người Mông cũng trồng chàm và chế biến thuốc nhuộm chàm(cao chàm). Cách thức chế biến thuốc nhuộm của họ không khác mấy với các dân tộc láng giềng. Chàm cắt về đem ngâm cho mục rã, sao đó gạn lấy nước cốt đem hoà với nước tro bếp và nước vôi, khuấy đều, để lắng lấy cao chàm.
Loại cao chàm này trữ lại dùng lâu dài trong cả năm, vừa để nhuộm vải mới, vừa nhuộm lại những váy áo đã bạc màu.
       Trước khi nhuộm vải, bao giờ cũng nhúng qua nước lã cho vải ngấm đều, rồi mới nhúng vào vại nước chàm. Vải nhúng nước chàm xong vớt ra đem ủ qua đêm, hôm sau giặt qua nước lã rồi mới đem phơi. Cứ thế, qua 10-18 lần thì vải có màu chàm đen ánh là được.
       Có thể nói, nghề trồng và dệt vải lanh đã gắn bó lâu đời với người Mông, nó không chỉ là thứ vật liệu cơ bản để dệt vải may mặc, một nhu cầu quan trọng trong đời sống vật chất của con người, mà cây lanh, sợi lanh đã đi vào thế giới tâm linh, tình cảm, trở thành một thứ biểu tượng cho sự bền chắc của đời người, của tuổi thọ, sự gắn bó của lứa đôi, là sợi chỉ dẫn đường cho linh hồn người chết về với tổ tiên, là cái cầu để linh hồn tổ tiên đầu thai trở lại với con cháu.
2, Những dáng nét chung
     Người Mông Việt Nam có các nhóm địa phương, như Mông Trắng, Mông Hoa, Mông Đen, Mông Xanh…, mà sự khác biệt gữa họ thể hiện qua lời ăn tiếng nói, tập tục sinh hoạt, trong đó trang phục là điều dễ nhận biết hơn cả. Nói như vậy không có nghĩa giữa họ là hoàn toàn khác biệt, mà những khác biệt ấy chẳng qua chỉ là khác biệt trên một cái nền chung. Cái chung ấy là gì?
     Tất cả các nhóm địa phương của người Mông đều mặc vải lanh nhuộm chàm, cho dù một vài bộ phận trang phục nào đó như váy của người Mông Trắng vẫn để nguyên vải mộc. Chính chất liệu vải lanh này đã tạo cho y phục Mông những nét riêng so với các dân tộc khác về đường nét, màu sắc, hoa văn… Cũng là màu chàm như các dân tộc miền núi khác, nhưng màu chàm của vải lanh có vẻ cứng cỏi, ánh sắc hơn so với sắc chàm của vải bông hay vải sồi. Cũng là váy xếp nếp tương tự như một số dân tộc khác, nhưng nếp vải lanh khoẻ khoắn, mạch lạc, ong ánh hơn so với nếp của vải thường.
     Tuy màu sắc và hoa văn trang trí có đôi chút khác biệt, nhưng kiểu cách y phục của các nhóm đều cùng kiểu loại. Đàn ông thì mặc quần đũng thấp, áo cài vạt sang một bên, ngắn lửng để hở một khoang bụng. Nữ thì mặc váy nhiều nếp là chính, phủ ngoài là đôi tạp dề cả trước và sau, áo mặc may kiểu ngắn, cài khuy sang một bên, trên tay có ghép nhiều khoanh vải màu, bao dây lưng với nhiều kiểu loại có trang trí.
     Nét chung đặc sắc hơn cả vẫn là màu sắc và các đường nét trang trí trên y phục và các đồ trang sức. Tuy sắc độ và liều lượng dùng màu trang trí có khác nhau đôi chút, nhưng cái chung vẫn là bộ nữ phục Mông giầu mằu sắc sặc sỡ, có lúc gây cho ta cảm giác dư thừa. Tuy nhiên, nếu đặt họ vào môi trường rừng núi khắc nghiệt, thì màu sắc rực rỡ ấy lại tạo nên sự tương phản hài hoà, bừng lên sức sống của con người.
     Trên nền y phục, màu sắc trang trí khai thác tối đa sắc độ các màu nguyên: đỏ, vàng, xanh, đen. Về kỹ thuật tạo hình, họ tận dụng tối đa các kỹ thuật vừa dệt, thêu, ghép màu và vẽ sáp ong. Có lẽ người Mông là một trong số rất ít ỏi dân tộc ở nước ta biết tận dụng và thành thạo những phương tiện và tạo hình trên y phục như vậy.
     Dường như màu sắc chưa đủ, người Mông còn tận dụng tối đa các vật trang sức. Dùng bạc, cườm, tua màu để gắn trên mặt vải, dùng các đồ trang sức đeo, như các loại vòng, dây chuyền, xà tích, hoa tai, nhẫn… Bởi thế, bộ trang phục Mông không chỉ giàu màu sắc mà còn vang lên những âm thanh theo nhịp bước vốn mạnh mẽ của các cô gái Mông, chúng đánh thức các đường nét về màu sắc, tạo nên một sự hài hoà không phải là tĩnh lặng mà luôn sống động.
     Người Mông cũng có cách nuôi tóc, chải tóc độc đáo. Đàn bà để tóc dài, cạo hết phần tóc gáy, tóc mai, tết những sợi tóc thành những dải tóc nhỏ, sau đó mới cuộn gọn tóc trên đầu trước khi đội khăn. Đây cũng là nét trang sức đầu tóc mang đặc trưng rõ nét của vùng Trung Á và Bắc Á.
     Có lẽ nam phục Mông giữ lại nhiều nét chung nhất giữa các nhóm Mông. Nếu như bộ váy, thắt lưng của người phụ nữ may bằng vải lanh thì bộ quần áo nam giới lại “ hợp” hơn với vải bông nhuộm chàm hay đen của người Thái, Tày hay vải lanh, vải láng đen mua ở ngoài chợ.
     Bộ nam phục gồm quần, áo ngắn, thắt lưng và khăn bịt đầu. Phải nói rằng, trong hấu hết các dân tộc vùng núi thì nam giới người Mông cong giữ lại lâu bền bộ y phục cổ truyền của mình, trong khi nam giới các dân tộc khác, nhất là lớp thanh niên, đã hầu như ăn mặc giống người King. Quần của nam giới may kiểu chân que, cạp rộng lá toạ, đũng quần rất thấp, khi mặc, cạp được dắt sang một bên rồi dùng thắt lưng vải hay da thắt lại cho chặt. Vì là quần đũng thấp, ống lại rộng, nên khi mặc, quần của nam giới Mông có dáng nét riêng, không thể pha trộn với bất cứ dân tộc nào.
     Có lẽ độc đáo hơn cả vẫn là chiếc áo của đàn ông Mông. Trước nhất, chiếc áo đó rất ngắn, phía trước chỉ đủ che một phần ngực, còn một khoảng bụng từ gấu áo xuống tới cạp quần vẫn để hở. Để “bổ khuyết”, họ mặc một chiếc áo lót bên trong màu trắng dài hơn áo ngoài, nên khi mặc áo ngoài vào thì giữa áo ngoài và cạp quần vẫn để hở một khoảng bụng áo bên trong, tạo nên một kiểu áo rất “Mông”. Về cơ bản đây là là loại may kiểu xẻ ngực, tay áo dài, có đáp những khoanh vải màu, tuy nhiên giữa các nhóm cũng có một vài khác biệt.
      Áo của đàn ông Mông Trắng giống hơn cả với áo của nam giới các tộc láng giềng, khuy áo đơm theo nẹp tà trước ngực, cổ áo đứng, có viền những đường chỉ trắng hình ô trám. Áo của nam giới Mông Hoa lại có chút khác biệt thể hiện ở vạt trước và cánh tay áo. Hai vạt áo trước của Mông Hoa có khâu đáp thêm một vạt bên phụ phía trái, tồi cài khuy áo bên nách. Rõ ràng ở đây có sự ảnh hưởng của loại áo ngắn xẻ nách mà nhiều dân tộc láng giềng hiện vẫn mặc. Cánh tay áo của Mông Hoa có đáp thêm 3 khoang vải mầu trắng gần cửa tay, áo không có cổ đứng, nhưng rìa cổ được viền một dải nhỏ vải khac màu.
      Áo nam giới Mông Đen thì may hai vạt trước không hẳn là kiểu xẻ nách hay xẻ ngực, mà gần như là trung gian giữa 2 loại trên. Tuy 2 vạt trước, nhưng cài khuy áo hơi lệch sang phía ngực phải một chút, gần cửa tay cũng đáp thêm một đoạn vải mầu thêu hoa văn trang trí. Còn áo của nam giới Mông Xanh thì hầu như không có trang trí gì đáng kể, trừ một đường viền nhỏ ở cửa tay. Cũng cần nói thêm rằng, tuy áo ngắn, nhưng áo của nam giới Mông thường may hai lớp vải, hình như để khắc phục khí hậu luôn mát về mùa hè và lạnh về mùa đông.
      Thỉnh thoảng cũng thấy nam giới Mông dùng khăn, nhất là ở nhóm Mông Trắng. Đó là tấm khăn vải màu chàm dùng để chít lên đầu. Ngày hội hè, nam giới cũng hay dùng các loại khăn len mua ở chợ về để quàng cổ, vừa cho ấm vừa để diện. Thường ngày nam giới đeo một cái vòng cổ xoắn lại từ những dây đồng (3 sợi), nhà giầu thì đeo thêm vòng bạc. Nhưng tới ngày cưới xin, lễ tết, đi chợ thì nam giới đeo đủ bộ vòng cổ, từ 2-7 chiếc, ngoài ra còn có vòng tay, nhẫn. Cũng có những người đàn ông vào tuổi trưởng thành bịt vàng hai răng nanh hàm trên.
3, Những sắc thái riêng
    - Bộ nữ phục Mông Trắng
    Bộ nữ phục của người Mông Trắng ở Đồng Văn gồm váy, áo, khăn đội, thắt lưng, tạp dề, xà cạp và các đồ trang sức khác. Phần lớn phụ nữ Mông Trắng mặc váy, tuy vậy có nơi, có người mặc quần, dù rất cá biệt. Nhưng khi chết, cũng phải lấy bộ váy trắng ra thay, như vậy tổ tiên mới nhận linh hồn người quá cố. Bởi thế, váy vẫn là bộ phận của nữ phục cổ truyền. Hơn thế nữa, đây lại là váy may bằng vải lanh trắng, màu vải càng trắng càng đẹp, có lẽ cũng chính vì thế mà nhóm này mới có tên gọi là Mông Trắng (Mông Đơ).
    Váy của phụ nữ là váy xếp nếp, trên thân váy không trang trí màu sắc hay hoa văn gì. Có loại váy ít nếp hơn mặc ngày thường, còn váy nhiều nếp dùng riêng cho những dịp tết lễ. Váy gồm cạp và thân váy. Cạp váy đã được chiết lại sao cho vừa vòng bụng, còn thân váy thì xoè rộng ra. Phần thân váy mặc thường chỉ may 20-30 vuông vải là đủ, nhưng váy ngày lễ phải gấp đôi số vải, do vậy số nếp gấp nhiều hơn, xoè rộng hơn, đung đưa bập bềnh theo nhịp bước. Đặc biệt thân váy chia thành 2 phần: Phần cạp, may đơn một lần vải, còn phần dưới thì lại may kép, hai lần vải. Vì là váy nếp hai lần vải nên may rất khó, sao cho vải không bị xô, nhăn nhúm, nếp tạo thành những đường thẳng mượt từ trên cạp xuống tới chân váy.
     Thường phủ ra ngoài tấm váy trắng là chiếc tạp dề ở cả phía trước và sau. Tạp dề không trắng tuyền như váy, mà là miếng vải cứng, trên đó đáp thêm những sọc vải màu dọc từ trên xuống dưới, tô điểm thêm trên nền váy. Tạp dề vừa là vật bảo vệ vừa là vật trang trí cho chiếc váy, khi cần cuộn lên thành một thứ túi đựng đồ.
     Áo ngắn cũng được phụ nữ để công trang trí, thêu thùa. Áo may vừa với thân hình, xẻ ngực, hai vạt vừa chấm thắt lưng, hai nách áo không cắt thẳng mà hơi lượn eo, nên khi mặc, áo càng ôm gọn lấy người. Phần của áo được tập trung trang trang trí là cổ yếm áo phía gáy. Loại áo mặc thường ngày chỉ là một miếng vải màu hay thêu thùa qua loa, nhưng nếu là áo cưới, áo hội, áo cúng hay áo mặc cho người chết thì trang trí cổ yếm rất cầu kỳ và công phu. Bố cục hoa văn ở đây theo mảng từ lớp trung tâm ra lớp ngoài rìa, trung tâm là ô trám, sao, biến thể của chữ thập…ngoài là các đường song song bao lấy hoa văn trung tâm thành nhiều lớp. Hai nẹp áp phía trước không đơm khuy, nhưng đáp thêm bằng vải mầu ưa dùng hơn cả là nẹp cổ màu đỏ hay vàng. Cũng có ghép nhiều loại vải khác nhau thành từng đốt, màu sắc xen kẽ nhau.
     Tay áo nối với thân ngang đường vai, tay áo hẹp dài, trên đó ghép nhiều vòng vải màu sắc khác nhau. Áo nữ Mông Trắng cũng may thành 2 lớp, chỉ khác là vải lớp trong và ngoài như nhau, nên họ có thể mặc cả 2 mặt.
     Trong bộ nữ phục Mông Trắng, thắt lưng được dụng công trang trí. Thường ngày đi làm , phụ nữ thắt loại thắt lưng vải, giữ chặt đoạn nối giữa gấu áo và cạp váy. Loại thắt lưng dùng trong những dịp hội hè, nghỉ lễ là thắt lưng vải có thêu hoa văn trang trí. Loại thắt lưng này ngắn, chỉ thắt được một vòng, nên người ta phải dùng nhiều thắt lưng một lúc. Khi quấn, mặt trang trí hoa văn lộ ra ngoài cả phía trước bụng và sau lưng, có khi che kín cả phần dưới bụng và lưng. Hoa văn trang trí thường là hoa 4 cánh, 8 cánh, hình xoáy ốc, đường vạch chéo, hình sao…
     Theo các bậc già cả thì xưa phụ nữ Mông Trắng dùng loại xà cạp rất dài bằng vải lanh trắng, tới 10-14 mét. Nay dùng đôi xà cạp ngắn hơn, bằng vải chàm, hình chéo góc, dài chưa tới 1m, riềm xà cạp viền chỉ trắng, dây buộc đính ở góc chéo.
     Thường thì phụ nữ Mông Trắng đội khăn thành một vành lớn trên đầu. Savina, một cố đạo người Pháp đã từng truyền giáo nhiều năm ở Sapa trong người Mông đã từng mô tả vành khăn của người Mông trắng dài tới mức quấn hàng giờ đồng hồ mới xong, thành một vành lớn. Sau khi quấn khăn thành vành, có người còn đội ra ngoài những mảnh khăn vuông với nhiều màu sắc khác nhau.
                                 
Em bé với bộ trang phục người Hmông
     

   
 
Trang phục người Hmông Đỏ
Cả nam lẫn nữ Mông Trắng ưa dùng ô trong khi đi chơi cũng như lúc lên nương, nó tiện lợi trong cả lúc trời mưa hay trời nắng, không dùng có thể gấp lại gọn gàng. Đồng bào có thể tự làm lấy loại ô giấy, thân và nan bằng tre, trúc, lợp bằng giấy phết màu nâu. Loại ô vải, gọng và cán bằng sắt, người Mông phải mua của người Kinh hay người Hoa. Ô đã tạo nên sự hài hoà với bộ y phục váy, áo, bởi thế từ lâu chiếc ô đã trở thành một bộ phận không thể thiếu của trang phục Mông.
     Nếu không kể những loại giày dép mới hiện nay thì từ xưa phần lớn người Mông đều đi chân đất, thỉnh thoảng vẫn thấy có loại dép đan kết từ những sợi giang tước mỏng hay loại dép đế bằng da trâu khô.
      Trong những dịp lễ tết, nhất là cưới xin, các bà, các cô đều mặc những bộ váy áo mới, đẹp. Cô dâu Mông đã may sẵn bộ váy, áo, thắt lưng cho lễ cưới, tuy kiểu may cắt không khác mấy so với váy áo bình thường, nhưng là những đồ mới, may bằng vải tốt, hoa văn trang trí tinh tế hơn.
      Người Mông Trắng có loại áo riêng trong tang lễ, vừa cho người chết và những người sống. Áo mặc cho người chết, không kể nam hay nữ đều giống nhau, đó là áo may bằng vải lanh, xẻ ngực, may rộng, vạt phủ dài, cổ áo trang trí giống như áo của phụ nữa, nhưng to rộng hơn. Cổ áo sau của người chết cũng có miếng hoa văn trang trí, nhưng không hiểu đó có phải là loại trang trí riêng hay không. Những người thân thuộc phải để tang, thì mặc loại áo “cúng bò”. Đó là áo may bằng vải lanh trắng, có tay hay không có tay, xẻ ngực, yếm cổ và nẹp áo trước đều trang trí hoa văn và đáp vải màu. Gọi là áo cúng bò vì khi cha mẹ chết, con cái phải mổ bò cúng, nên áo mặc trong tang lễ cũng có tên gọi như vậy.
       Cũng như nhiều nhóm Mông khác, phụ nữ Mông Trắng quen dùng nhiều đồ trang sức. Vòng cổ là thứ trang sức được dùng nhiều nhất. Có nhiều vòng cỡ khác nhau, kích tấc to nhỏ, trang trí, chất liệu khác nhau. Ngày thường người ta đeo vòng vía và một vài vòng bạc, nhưng ngày lễ, cưới thì thường đeo vòng cổ thành bộ gồm nhiều chiếc cùng với những dây chuyền bạc. Vòng vía bằng bạc, đồng hay bằng dây mây. Khác với vòng trang sức, vòng vía đeo vào rồi thì không được cởi bỏ ra, hai đầu vòng vía thường không thể tách rời mà nối với nhau bằng những móc xích nhở. Đeo vòng vía, theo quan niệm dân gian có thể trừ được ma tà, tránh mọi dịch bệnh.
      Phụ nữ Mông Trắng cũng quen đeo nhẫn và cách thức đeo nhẫn trên ngón tay cũng thể hiện những hoàn cảnh riêng của từng người đeo. Nếu đeo một chiếc nhẫn vào một ngón thì người đó chưa lấy vợ, chồng hay đã goá vợ hay chồng. Còn đeo hai nhẫn vào một ngón tay cái là đã có vợ hay chồng. Khi goá vợ hay chồng, nhưng thôi không có ý định đi bước nữa thì vẫn cứ đeo 2 nhẫn trên 1 ngón…
     - Bộ nữ phục Mông Hoa
     Khác với Mông Trắng, phụ nữ Mông Hoa may váy bằng vải lanh nhuộm màu chàm đen, trên thân váy trang trí hoa văn. Đây là loại váy xếp nếp, phần cạp váy đã chiết lại cho vừa với vòng bụng, còn thân và gấu váy thì xoè rộng, chu vi tới hơn 5m, số nếp gấp đếm được cũng tới hơn 500 nếp. Váy chia làm phần: cạp hay đầu váy, thân và gấu váy. Cạp váy có dây buộc. Trên mặt cạp váy thường trang trí hoa văn vẽ bằng sáp ong.
     Bên bếp lửa các buổi tối, thường thấy phụ nữ Mông càn cù ngồi vẽ sáp ong lên mặt vải. Người ta nhúng “bút vẽ” (co chía) bằng đồng vào chảo sáp ong nóng rồi in lên mặt vải theo những hình trang trí, sau đó nhúng vải đã vẽ vào nước chàm, phần vải có đường vẽ sáp ong sẽ không ăn mầu chàm. Cuối cùng nhúng vào nước sôi, sáp ong tan ra, để lại trên mặt vải chàm những đường nét màu trắng vải mộc.
        Phần thân và gấu váy trang trí hầu như dày đặc những hoa văn bằng cách thêu và ghép vải mầu. Phần thân váy thêu các đường thẳng song song, giữa những đường song song nằm ngang ấy là những mảnh vải màu được ghép rất khéo léo trên nền vải chàm, những đường nét hoa văn thêu trên mặt vải. Tuy nhiên, có lẽ gấu váy mới là nơi phụ nữ để công trang trí hơn cả. Gấu váy được phân ra từng đoạn với những đồ án trang trí khác nhau. Thường là đồ án đầu và cuối tương tự nhau, tạo nên thế đối xứng, sau đó là đoạn thứ 2, thứ 4 hoa văn cũng tương tự, cuối cùng đoạn 3 và 5 cũng giống nhau. Như vậy, các mảng hoa văn cứ xen kẽ nhau, tạo nên thế đối xứng cách quãng. Các mô típ trang trí là các hình tam giác với màu sắc khác nhau kết hợp lại theo những bố cục khác nhau, hình chữ thập với nhiều biến dạng, hình xoáy ốc xuôi và ngược chiều, hình dấu nhân, chữ nhật, các đường kẻ song song, hình hoa lá, trong đó hoa ban được thể hiện nhiều hơn cả. Trên tấm váy Mông Hoa hầu như người ta không còn thấy chỗ nào còn nguyên mầu nền nữa, mà các màu đỏ, xanh, vàng đan xen vào nhau, trong đó màu đỏ vẫn là màu chủ đạo, tạo nên màu sắc sặc sỡ của cạp váy.
Trang phục của người Hmông Hoa
 Áo mặc của phụ nữ có 2 loại, áo mặc ngày thường và áo mặc trong dịp hội hè. Áo thường ngày may bằng vải 2 bên mép nẹp áo. Tay áo dài, có 3 khoanh mầu trang trí cách quãng nhau trên khắp cánh tay hay dồn về phía gần cửa tay. Phía cổ sau của áo, cũng giống như người Mông Trắng, áo Mông Hoa cũng có trang trí Đá tro, nhưng chỉ khác là đây thuần tuý chỉ là 2 miếng vải hình chữ thập ghép lại. Áo cũng may 2 lớp như của các nhóm Mông khác. 
        Áo mặc trong dịp lễ tết, hội hè thì người ta để công chăm chút hơn nhiều, nhất là các hoa văn trang trí từ khoảng 1/3 thân áo trở xuống. Mô típ trang trí thường thấy hơn cả là những đường xoáy ốc nằm giữa các đường thẳng song song. Kỹ thuật tạo hoa văn là ghép vải màu. Miếng vải màu hình chữ nhật được cắt thành đường xoáy ốc, nét khá mảnh. rồi được khâu lên vải áo. Các mô típ hình tam giác với màu sắc khác nhau ghép lại thành những bố cục mảng đa dạng. Đó là 2 đồ án trang trí chính trên áo, nhưng chúng bổ sung, xen cài với nhau tạo nên hình khối và màu sắc hài hoà.
        Phủ ra ngoài váy là chiếc tạp dề để màu chàm nguyên hay được ghép các sọc vải màu khác, thậm chí những mảng hoa văn thêu trên gần khắp mặt vải tạp dề. Người Mông Hoa không dùng nhiều thắt lưng và trang trí cầu kỳ như người Mông Trắng, mà chỉ dùng một cái bằng vải lanh nhuộm chàm, dài khoảng hơn 1m, thắt nhiều vòng quanh bụng. Cũng có loại thắt lưng dài hơn, màu hồng hay xanh, khi thắt nổi màu trên nền nền chàm của váy và áo.
       Khăn và túi của phụ nữ Mông Hoa chịu ảnh hưởng nhiều từ người Thái láng giềng. Bình thường thì phụ nữ chít khăn màu chàm đậm hay màu đen, gần đây chị em ưa mua khăn len hay sợi của mậu dịch để đội. Tuy nhiên, trong dịp hội hè, đi chơi chợ, chị em lại đội khăn thêu hoa, gọi là phưa pạ. Khăn phưa pạ mua của người Thái, đó chính là khăn piêu, nhưng sau đó trang trí thêm những chùm sợi len màu đỏ. Cách thức đội khăn của người Mông cũng khác với phụ nữ Thái đội khăn piêu, họ quấn thành hình chóp lớn trên đầu, những bông len đỏ lộ ra phía ngoài, tạo nên màu sắc rực rỡ của khăn. Phụ nữ Mông cũng ưa dùng chiếc túi thổ cẩm của người Thái để đựng tiền, vật tuỳ thân và cái chính vẫn là để trang trí cho đẹp.
s. Bộ y phục của phụ nữ không chỉ giàu màu sắc, mà những đồ trang sức cũng rất phong phú. Bình thường, phụ nữ đeo một vài vòng cổ bằng bạc, nhưng khi cưới xin, lễ tết họ đeo rất nhiều vòng bạc cùng một lúc, từ 2-7 chiếc, đấy là chưa kể những sợi dây chuyền bạc đeo từ cổ buông dài xuống ngực. Ngoài vòng cổ trang sức, người ốm đau còn đeo các loại vòng vía, túi vía. Vòng vía xoắn lại từ 3 sợi dây đồng, bạc và sắt, do thầy cúng trực tiếp đeo cho người ốm để không cho vía của người ốm thoát ra ngoài và ma quỷ không nhập vào người làm hại. Còn có một loại túi bùa hay túi vía may bằng những miếng vải màu đỏ, đen thành hình túi tam giác. Túi này được buộc vào chiếc vòng, đeo cho trẻ nhỏ và những người đang bị ốm đau.
       Vòng tay của người Mông Hoa cũng có nhiều kiểu loại, trong đó quý và đẹp nhất là chiếc vòng tay bằng bạc, khắc hình khóm lúa rất tinh tế trên khắp mặt vòng, loại đó gọi là khâu pó chè. Phụ nữ đang có mang và vừa mới sinh thường hay đeo vòng tay bằng đồng, trên mặt có những hình nổi, tượng trưng cho 12 con vật: Rồng, chó, lợn, gà, hổ, thỏ, rắn, khỉ, voi, ếch, chuột và thằn lằn.
       Phụ nữ Mông Hoa đeo loại vòng tai bằng nhôm, mỏng, toàn thân hình xoắn ốc, mỗi bên tai ít nhất đeo một cái, còn thường thì 2-3 cái. Trên mặt của những chiếc khuyên này trang trí nhiều hoạ tiết, trong đó chủ yếu là hoạ tiết xoắn ốc, một hoạ tiết trang trí chủ đạo của người Mông. Vì đeo nhiều loại vòng khuyên như thế nên từ khi còn nhỏ, các em gái đã được xâu lỗ tai, đến khoảng 7-8 tuổi là có thể đeo vòng khuyên rồi.
       Các em nhỏ người Mông Hoa đã được cha mẹ may mặc theo bộ y phục truyền thống. Các em bé gái mặc áo xẻ vạt ngực, trên gấu, đường nách và cửa tay trang trí những riềm vải mầu. Thắt lưng to bản mà cả mặt trước và sau đều trang trí hoa văn rất tinh tế, mũ ni đội đầu bằng vải mầu, ngoài ra còn ghép thêm nhiều đồng bạc trắng. Khi để đầu trần, tóc các em gái được túm gọn lên đỉnh. Cổ đeo vòng vía, 2-3 vòng bạc cỡ to, nhiều dây chuyền bạc, rủ xuống tận thắt lưng. Có em còn khoác qua vai chiếc túi vải đựng đồ chơi, mặt túi thêu hoa văn rất đẹp. Tới tuổi trưởng thành, cả nam lẫn nữ ưa bịt răng vàng.
                   ( Nguồn: sách Trang phục cổ truyền các dân tộc Việt Nam, NXB Văn hoá dân tộc Hà Nội- 2000, tác giả Ngô Đức Thịnh)     
 
3. ẨM THỰC
Trong kho tàng văn hoá ẩm thực, Việt nam là quê hương của nhiều món ăn, từ những món ăn dân giã trong ngày thường đến những món ăn cầu kỳ để phục vụ lễ hội và cung đình đều mang những vẻ riêng. Mỗi vùng miền trên đất nước lại có những món ăn khác và mang ý nghĩa riêng biệt tạo nên bản sắc của từng dân tộc. Nó phản ánh truyền thống và đặc trưng của mỗi cư dân sinh sống ở từng khu vực.
Ông cha ta đã có câu: “ Học ăn, học nói, học gói, học mở ”. Ăn mà phải học, ăn là một khoa học. Người Việt Nam từ lâu đã ý thức được như thế. “Ăn không chỉ là để đáp ứng nhu cầu tồn tại của con người. Ăn là cả vấn đề ứng xử, vấn đề xã hội”.
Và người Hmông cũng vậy. Họ có những nét đẹp riêng biệt trong văn hoá ẩm thực của mình. Người Hmông thường ăn ngày hai bữa, ngày mùa ăn ba bữa. Bữa ăn với các thực phẩm truyền thống có mèn mén (bột ngô đồ) hay cơm, rau xào mỡ và canh. Bột ngô được xúc ăn bằng thìa gỗ. Phụ nữ khéo léo làm các loại bánh bằng bột ngô, gạo vào những ngày tết, ngày lễ. Người Hmông quen uống rượu ngô, rượu gạo, hút thuốc bằng điếu cày. Ðưa mời khách chiếc điếu do tự tay mình nạp thuốc là biểu hiện tình cảm quý trọng. Trước kia, tục hút thuốc phiện tương đối phổ biến với họ.
Món ăn phổ biến nhất của người Mông là “thắng cố”. Ðây là món canh gồm các loại thịt, xương, lòng, gan, tim, phổi bò (dê) cắt thành từng miếng nhỏ được nấu chung trong chảo to. Người Hmông thường nấu thắng cố khi nhà có bữa đám hay trong các chợ phiên.
Trước đây thắng cố chủ yếu là xương bò, xương trâu ninh nhừ cùng với lục phủ ngũ tạng của gia súc ăn cỏ. Nồi thắng cố to, sôi lục bục nổi lên những tảng thịt, tảng mỡ to lên màu vàng nhạt trông mới hấp dẫn làm sao. Món ăn nhiều đạm như thế mới đủ ấm lòng những người đi chợ xa, lâu lâu mới có dịp thưởng thức món ăn đặc sản này.

Thắng cố ngày nay, nhất là thắng cố ở trong các nhà hàng mang thương hiệu "dân tộc", hương vị đã bay đi ít nhiều. Bởi nồi thắng cố ấy đã bị các gia vị tẩm ướp "tung hỏa mù" khiến thực khách bị mụ mị bởi mùi thơm, bởi vị ngọt của bột nêm, mỳ chính. Vì thế, rất nhiều du khách mùa đông đã cất công lên chơi miền sơn cước vào những dịp chợ phiên để thưởng thức thắng cố "thật".
Các quán thắng cố vùng cao bây giờ nhiều nơi chế biến rất cẩn thận, sạch sẽ vì đồng bào đã hiểu ý nghĩa của khẩu hiệu "giữ vệ sinh an toàn thực phẩm" và cũng là một bí quyết để thu hút khách. Những hình ảnh mà Thiếu nhi dân tộc giới thiệu với bạn là các bước chuẩn bị chế biến món thắng cố ngựa của người Mông ở Đồng Văn, Hà Giang. Các loại xương, thịt, ngũ tạng đều được đồng bào làm sạch sẽ và để riêng từng loại. Nồi nước dùng được đầu bếp người Mông "chăm sóc" rất chu đáo, múc từng muỗng bọt ra để nước xương thêm ngọt, thêm trong. Xương nhừ thì cho thịt vào nồi, thịt vừa chín tới thì cho lòng, dạ dày, tim gan vào tiếp...
 
Từng bát thắng cố nhỏ điểm những lát hành hoa được múc ra, nhà bếp không quên bên cạnh những đĩa gia vị xinh xắn chế biến cầu kỳ theo đúng hương vị vùng cao. Vị ngon của thắng cố hòa với hương vị đặc biệt của đồ chấm làm cho thực khách cứ hít hà, tấm tắc khen ngon. Anh Giàng Dũng Sài, một người Mông tài hoa, nổi tiếng vì chơi được nhiều loại nhạc cụ dân độc, đồng thời cũng là một "đầu bếp trẻ không đến nổi tồi" nói vui: "Đây là người Mông chế biến thắng cố theo tiêu chuẩn của người miền xuôi. Thực ra, thắng cố nguyên gốc của người ngày xưa đơn giản rất nhiều mà ngon cũng không kém. Chỉ có điều ngày xưa ở vùng cao hiếm lắm nên chế biến chưa được sạch sẽ như bây giờ thôi. Thắng cố ngày xưa được múc bằng muôi gỗ, đựng trong bát gỗ nên trông giản dị hơn."
Bây giờ, người Kinh, người Dao, người Tày cũng đều biết nấu thắng cố, thậm chí nấu rất ngon. Nhưng dường như hương vị thắng cố đặc biệt nhất, khiến thực khách nhớ lâu nhất vẫn là thắng cố của dân tộc đã sinh ra nó: Người Mông, với người Mông, Thắng cố không chỉ là món ăn ngon, thể hiện sự khéo léo và sành ăn mà còn là nét đẹp văn hóa của đồng bào.

Món ăn của người Hmông – Hà Giang
Khi nhắc đến phong cách ẩm thực của người Việt Nam, chúng ta không thể không nhắc đến một nét văn hoá trong phong cách ẩm thực của người dân tộc HMông.
Tuỳ vào tính chất thời tiết hay tính chất của mùa vụ mà các món ăn của những người dân tộc Hmông lại có sự thay đổi rất đặc biệt.
Món ăn người HMông ở vùng Hà Giang mang đậm chất du canh du cư.
1) Ngô là lương thực chính được người Hmông chế biến thành hai loại: một là mèn mén (dùng thay cơm), hai là làm bánh ngô trong những ngày lễ tết, hội hè.
Mèn mén: là ngô bột được xay nhỏ bằng cối đá, sau đó người Mông sàng, sẩy thật sạch rồi cho nước vào chõ để đồ, khi hơi toả đều trên mặt chõ, lại đổ ra nia, nhào nước và cho vào chõ đồ lần thứ hai, đun cho tới khi chín. Vì bận công việc nương rẫy, hơn nữa làm mèn mén mất nhiều thời gian nên người Mông thường đổ một chõ đầy, đủ ăn cả ngày.
Bánh ngô được làm bằng ngô nếp hoặc ngô tẻ non, nếu là ngô non, bà con chọn quả ngô bánh tẻ, bấm ra sữa, chưa tẽ được, lấy dao mỏng lát lấy hạt ngô, sao đó cho vào cối xay được thứ nước quánh đặc như sữa. Gói bột ngô đó vào lá, cho vào chõ đồ thành bánh. Đối với ngô nếp, bà con xay bột rồi ủ nước, sau đó được thứ bột giống bột gạo người Việt làm bánh phở, tiếp đó gói lại cho lên bếp đồ. Ngoài ra bà con còn dùng bột ngô nếp để làm bánh trôi.
2) Thức ăn hàng ngày của người H’mông gồm cơm, rau cải, đậu, bí đỏ, cá chua, thịt chua, thịt hun khói. Món thịt chua ăn với cơm thì ăn đến "không biết no là gì".
3) Ngày mùa, ngày tết, ngày lễ người H’mông có thêm xôi, bánh dày, bánh chưng, thịt gà, thị dê, thịt lợn (heo) hoặc thịt bò.
Gà H’mông là giống gà da đen, xương đen, thịt đen. Về mặt dinh dưỡng, gà H’mông giá trị gấp nhiều lần giống gà ác. Người H’mông Hà Giang có món truyền thống là gà tần (tiềm) thuốc Bắc, dành để tẩm bổ cho những người ốm yếu.Ngoài ra người H’mông còn có canh thịt gà, thịt gà nướng, gà hấp lò, lẩu gà được nấu với các gia vị làm từ thảo dược Tây Bắc, kèm theo khoai tây, rau muống, ngải cứu... Món gà rang muối.gồm thịt gà được cắt thành miếng vừa, tẩm gia vị, gói vào giấy bạc, đem nướng trong muối rang nóng, thưởng thức vô vùng thú vị...
Thịt lợn của người H’mông có thể là thịt lạp treo trên bếp làm thức ăn dần. Thịt bò có thể là thịt khô treo trên gác bếp.
4) Ngoài ra, người H’mông còn có một món ăn trong các phiên chợ, ngày hội, đó là món thắng cố, là món thịt thái to, cả xương, lòng gia súc, thịt dê hoặc thịt bò hầm nhừ trong chảo ăn nóng.
5) Người H’mông làm thức ăn thường ninh (hầm) nhừ, ít có món xào, gia vị thường có ớt, gừng.
Bình thường không có khách, cả nhà người H’mông ngồi ăn chung, nếu có khách thì đàn ông và khách ăn trước, phụ nữ, trẻ em ăn sau.

Văn hoá Ẩm thực Dân tộc Mông ở Bắc Kạn

Hằng ngày đối với đồng bào Mông, bữa ăn sáng là bữa phụ, hai bữa chính là trưa và tối. Lương thực chủ yếu của họ là ngô. Vì thế, đồ bột ngô ăn thay cơm gạo là tập quán của người Mông, đồng bào gọi là má cử (cơm ngô). Ngô được xay thành bột, trộn nước cho đủ ẩm rồi nhào bột đồ chin lần đầu, đổ ra cho nguội, lại cho chút nước nhào đều và đồ tiếp lần nữa.

Bột chín được đổ vào rá rồi dùng thìa xúc ăn với nước canh, rau, thịt và các thức ăn khác. Đồng bào còn dùng ngô non, thái hạt, xay nhuyễn hoặc dùng bột ngô nếp làm bánh rợm, bánh trôi. Món ăn phổ thông được đồng bào ưa dùng là đỗ tương xay thành bột đun sôi, cho ít nước chua và rau vào nấu chín làm canh. Món ăn khô là lạc, vừng rang. Các loại thịt được nấu, nướng hoặc hầm nhừ với gia vị nhưng không có tập quán làm thắng cố như vùng Hà Giang và Tây Bắc. Thịt để dành lâu ngày được ướp muối, phơi hoặc sấy khô trên gác bếp. Do điều kiện sống trên núi nên ngoài thịt thú rừng, thịt gia súc, gia cầm, trứng gà, vịt … hiếm khi đồng bào được ăn ốc, cá. Các loại rau rừng như bồ khai, rau ngót rừng, các loại nấm, măng, hoa chuối, lõi non thân chuối, các loại quả bứa, vả, dâu da … thường được xào nấu hoặc ăn sống như các loại quả cây.

Đồ uống hàng ngày là nước đun sôi để nguội, hoặc nướng quả ngô cháy vàng cho vào nồi nước sôi để dùng như nước chè nhưng có chút mùi khét, vị ngọt; hoặc uống chè dây là cây dây leo bò, mọc hoang ở rừng núi. Do du canh du cư không trồng được chè, đồng bào thường mua chè để uống, tiếp khách. Nhiều khi đi rừng, làm nương rẫy họ còn phải uống nước khe suối.

Rượu được rất nhiều người ưa dùng, thậm chí nam giới thường dùng hàng ngày. Các dịp cưới xin, cúng ma, tiếp khách và các ngày tết không thể thiếu rượu. Đồng bào ưa dùng rượu cất từ ngô. Ngoài ra cũng có người cất rượu lên men từ mì, mạch, sắn, chuối và các cây có bột trong rừng. Nam giới ưa dùng rượu có nồng độ cao. Phụ nữ lại hay dùng rượu nếp, rượu chưa cất.
Phương tiện vận chuyển:
Người Hmông quen dùng ngựa thồ, gùi có hai quai đeo vai. Đây là phương tiện vận chuyển chủ yếu của họ. Do điều kiện về địa lý và trình độ khoa học kỹ thuật còn chưa phát triển nên họ chủ yếu dùng ngựa thồ.
IV.                      VĂN HOÁ PHI VẬT THỂ
1, NGÔN NGỮ HMÔNG
Ngôn ngữ là một tiêu chí quan trọng để phân biệt tộc  người này với tộc người khác. Ngôn ngữ là đặc trưng nổi bật của văn hoá tộc người.
-         Ngôn ngữ là một thành tố của văn hoá đồng thời là phương tiện trong các sinh hoạt văn hoá tinh thần. Người Hmông chưa có chữ viết nên ngôn ngữ rất quan trọng, toàn bộ văn hoá được lưu truyền là nhờ tiếng nói truyền miệng. Khi đứa trẻ ra đời, đứa trẻ tiếp xúc với nghệ thuật đầu tiên là nhờ tiếng hát ru của người mẹ, và với văn hoá Hmông, tri thức văn hoá Hmông được trao truyền cho đứa trẻ cũng là ở lời khuyên, dạy bảo của ông bà, cha mẹ. Tiếng mẹ đẻ là phương tiện trao truyền “mã” văn hoá tộc người đến thành viên mới.
-         Ngôn ngữ Hmông có mặt ở tất cả các thành tố văn hoá tinh thần nhưng ngôn ngữ Hmông đóng vai trò chủ yếu trong các loại hình văn hoá dân gian, ngôn ngữ Hmông phát triển, giàu tính thẩm mỹ, trở thành “nghệ thuật ngôn từ”. Ngôn ngữ Hmông là ngôn ngữ giao tiếp trong đời sống thường ngày. Người Hmông sử dụng tiếng Hmông trong gia đình, sinh hoạt làng, giao dịch chợ phiên, trao đổi mua bán. Ngôn ngữ Hmông trở thành ngôn ngữ thông dụng cho cả vùng. Người Giáy, người Phù Lá, người Dao, người Tày đều sử dụng tiếng Hmông.
Các truyền thuyết truyện cổ về chữ viết Hmông:
-         Người Hmông trước đây tuy không có chữ viết nhưng lại có cả một hệ thống huyền thoại, truyền thuyết, truyện cổ về chữ viết của dân tộc mình. Trong một số truyện cổ đều quan niệm từ xa xưa người Hmông đã có chữ viết. Chữ viết này được ông trời cho (truyện “Người Mèo bị mất chữ” ) hoặc do ông thần nông cho. Người Hmông có chữ rất sống rất sung sướng, tra thóc, tra ngô đều được mùa. Cả làng Hmông luôn ca hát, thổi sáo, vui chơi, quanh năm nhân dân đều mở hội ăn mừng. Nhưng về sau, người Hmông bị quỷ ghen ghét, sà xuống nơi vưa Hmông ngủ, liếm tất cả các chữ ghi ở lòng bàn tay vào bụng. Người Hmông mất chữ sống khổ cực. Vua Hmông lần lượt cử các chàng trai khoẻ mạnh, các già làng tài giỏi đi đòi chữ. Nhưng những người này đều không trở về, vua Hmông ra đi tìm chữ cũng không thấy trở về.
-         Có chuyện lại kể do người Hmông có chữ viết luôn đánh thắng người Hán nên vua Hán cử người sang trộm chữ Hmông, mất chữ nên người Hmông bị người Hán chiếm mất đất. Và ngày nay khi mở đầu phần hát dân ca than thân, người Hmông đều phải bắt đầu bằng câu than: “trời hết rồi”:
“ Vì người Mèo ta không biết chữ
   Thua kiện người Hán ta mới đi ”
Các truyện cổ Hmông giải thích do mất chữ nên người Hmông mới mất đất, mất vua. Như vậy, nhờ có chữ người Hmông mới có cuộc sống ấm no, có đất nước riêng; mất chữ là mất đất, mất lãnh đạo, rơi vào cuộc sống nghèo nàn, tăm tối.
Người Hmông quan niệm muốn đổi đời, muốn cuộc sống ấm no, sung sướng thì phải có chữ viết. Nỗi khát khao chữ viết đã sáng tạo một số hình tượng nhân vật tài cao, học giỏi trong truyện cổ Hmông. Theo truyện cổ kể lại, khi mới di cư sang Việt nam, những thủ lĩnh dẫn đầu đoàn người di cư như các ông Hoàng Sín Dần, Sào Cổ Phìn, Giàng Chẩn Mìn…. đều là những người giỏi võ nghệ, học giỏi chữ Hán. Thực tế khi trao đổi thư từ với người Pháp, các thủ lĩnh nghĩa quân Hmông như Giàng Chỉn Hùng ở Bắc Hà, Hào Chín Lù ở Mù Cang Chải đều là người biết chữ Hán. Tất nhiên, số người biết chữ Hán ở vùng người Hmông tỉnh Lào Cai rất ít, chỉ có một số nhà giàu, chức dịch mới có khả năng mời thầy về dạy chữ cho con cái. Còn trước Cách mạng tháng 8, hầu hết người Hmông đều mù chữ, chữ viết vẫn chỉ là niềm khát vọng, mơ ước của người Hmông.

 IV. VĂN HOÁ TINH THẦN (VĂN HOÁ PHI VẬT THỂ)
Sinh viên thực hiện: Bùi Thị Chi
-         Tôn giáo, tín ngưỡng
-         Văn hoá xã hội
Văn hóa tinh thần
1.     Ngôn ngữ 
2.     Tôn giáo tín ngưỡng
Trong xã hội truyền thống tín ngưỡng tôn giáo là một trong những thành tố quan trọng nhất của văn hóa tinh thần, nó tác động mạnh mẽ đến nghệ thuật và văn học dân gian. Tín ngưỡng tôn giáo của người Hmông có nhiều nét tương đồng so với các tín ngưỡng tôn giáo của các tộc người khác. Sự khác biệt thường bộc lộ ở sự phát triển một số loại hình hoặc ít chịu ảnh hưởng của tôn giáo như một số tộc người láng giềng như: Dao, Tày, Nùng. Trong các hình thức tôn giáo truyền thống Hmông, việc thờ cúng tổ tiên đặc biệt là saman giáo tương đối phát triển. Nhưng những hình thức tôn giáo sỏ khai như: vật linh, tô tem giáo, các loại ma thuật… vẫn tồn tại ở dạng tàn dư và đóng vai trò quan trọng. Tôn giáo tín ngưỡng đã hòa quyện với các lễ thức hội hè tạo nên những sắc thái, sự  phong phú trong đời sống văn hóa tinh thần người Hmông.
a. Thờ cúng tổ tiên, ma nhà và thần bản mệnh cộng đồng “giao”
·        Thờ cúng tổ tiên: Là một hình thức tôn giáo quan trọng của người Hmông, sự thờ cúng tổ tiên được thể hiện trong các quan niệm, nghi lễ, các điều kiêng kị…
-          Thờ cúng tổ tiên là thờ cúng ông bà, cha mẹ và những người đồng tộc đã chết và trước hết là các hình thức gia đình – thị tộc của sự thờ cúng đó, tức là lòng tin rằng tổ tiên đã chết sẽ che chở cho con cháu đang sống và những nghi lễ cầu xin cho các thành viên thị tộc hay gia đình tiến hành nhằm thờ phụng tổ tiên.
Người Hmông quan niệm tổ tiên là những người đã chết trong vòng ba đời trở lại (cha, ông, cụ). Quan niệm này thể hiện trong các bài khấn mời tổ tiên (cúng năm mới, cúng ma trâu…) chủ nhà hoặc thầy cúng đều gọi tên tuổi  những người thuộc ba thế hệ đã khuất trở về ăn tết với con cháu, phù hộ cho con cháu làm ăn thuận lợi. Trong một bản người Hmông thường có vài dòng họ, mỗi dòng họ có một ông tổ cụ thể đã chết mà người già ở thế hệ cao nhất trong phả hệ còn nhớ được.
Các thành viên trong dòng họ gắn bó chặt chẽ với nhau, bởi cùng một phả hệ dòng nam do một ông tổ sinh ra. Thông thường nếu tính từ thế hệ con lên đến ông tổ là ba đời. Trong dịp làm ma bò (ma trâu) “nhu đa” tất cả các thành viên trong dòng họ phải tới dự. Đồ cúng phải bày theo đúng quy cách của từng dòng họ, nhưng thường bát cúng thứ nhất mời tổ tiên, bát cúng thứ hai mời cha mẹ đã khuất, bát cúng thứ ba mời ma nhà, ma rừng, ma núi, ma suối…Trong lễ cúng, ông trưởng họ thường kể về sự nghiệp của tổ tiên, các quy ước kiêng kị của dòng họ, mỗi lần cúng như vậy hình ảnh của tổ tiên lại được khắc sâu vào trong tâm trí của mỗi thành viên.
Khác với người Việt, người Tày bàn thờ tổ tiên thường đặt ở vị trí gian giữa, nhưng nhiều dòng họ Hmông không lập bàn thờ tổ tiên riêng. Nơi thờ cúng tổ tiên chỉ là một miếng giấy hình chữ nhật kích thước 20*30cm gần nơi thờ “xử ca” ở trên bức vách hậu gian giữa. Trang trí trên bàn thờ chỉ là mảnh giấy bản và cắm 3 ống hương thờ ông bà, bố mẹ, cha ông cụ, chú bác, những người anh em cùng thế hệ. Nơi đặt bàn thờ là nơi thiêng liêng, chỉ có chủ gia đình mới được làm chủ lễ cúng mời tổ tiên, chỉ có con trai mới được đến gần bàn thờ. Người Hmông chỉ cúng tổ tiên vào dịp năm mới, lễ cơm mới và khi cần cúng chữa bệnh…
Bên cạnh việc thờ cúng tổ tiên, người Hmông còn tồn tại một hệ thống ma nhà với những lễ thức cúng bái riêng.
-         “Xử ca” là ma có vị trí quan trọng trong hệ thống các ma nhà. Nó gắn liền với ý niệm giàu có, nhất là về tiền bạc. Nơi thờ “xử ca” ở tấm ván hậu gian giữa nhà, nơi thờ được gián hai miếng giấy bản màu vàng và bạc cắm ba hoặc chín lông gà, bôi ít máu gà. Mỗi năm cúng một lần vào 30 tết, đồ cúng là một con gà trống màu đỏ. Ông chủ nhà cắt tiết gà chết rồi thả gà trong nhà. Ông quan sát, gà quay đầu về hướng nào để đoán việc làm ăn trong năm tới có phát đạt hay không? Nếu khi gà chết quay đầu về bức tường thờ xử ca hoặc phía buồng ông chủ nằm thì sẽ nằm ăn phát đạt và ngược lại.
-         “Ma cột chính”: Cột chính là cột giữa của vì kèo thứ hai ngăn gian đầu hồi bên phải với gian giữa. Cột chính là nơi thờ ma lợn “bùa đáng” cột tượng trưng cho sự hưng thịnh của gia đình liên quan đến sức khỏe và vân mệnh của gia đình. Cột chính là nơi linh thiêng của ngôi nhà cho nên người Hmông kiêng dựa cột và không được treo quần áo, đò dùng vào cột chính. Khi gia chủ sinh con trai, nhau thai sẽ chôn ở chân cột chính. Khi chết, thầy cúng phải chỉ đường cho hồn về nhận lại áo “nhau” ở chân cột chính mang về cho tổ tiên.
-         Ma cửa “xìa mềnh”: Có nhiệm vụ như lính cửa, ngăn ma ác vào nhà bảo vệ gia súc, bảo vệ của cải, bảo vệ các hồn và ngăn không cho hồn các thành viên trong gia đình bỏ đi.
-         Ma buồng “đá trùng”: chăm sóc bảo vệ sức khỏe trẻ thơ, phát triển đàn gia súc.
-         Ma bếp “ đá  kho trù”: bảo vệ việc sinh nở của phụ nữ và phù hộ cho việc chăn nuôi gia súc.
-         Ma bếp lửa gian giữa “hú sinh” là nơi diệt ma ác.
-         Ma bảo vệ hồn lúa, hồn ngô: phù hộ cho được mùa.
          Vậy thờ cúng tổ tiên là một hình thức tôn giáo chính thống của dân tộc Hmông.
          Ÿ Thờ cúng thần cộng đồng làng Giao.
- Trong phạm vi làng “giao” hay liên làng, người Hmông thờ cúng các thần thổ địa “thủ ty”.

 
- Đồng bào quan niệm thân của “giao” cho phối cuộc sống của cộng đồng giao, người dân trong “giao” khỏe mạnh, được mùa, gia súc đông là nhờ thần phù hộ.
b. Vật linh giáo
Người Hmông quan niệm một số loài trong thế giới động thực vật và con người đều có phần xác và phần hồn. Phần xác là thực thể tồn tại mà con người nhìn thấy được, phần hồn rất quan trọng chi phối phần xác nên con người không thể nhìn thây được.
c. Saman giáo
Là hình thức tôn giáo chuyên biệt, nó có người chuyên nghiệp hành nghề tôn giáo gọi là thầy Saman – những người được xem là có khả năng dùng phù phép đưa mình vào trạng thái u mê, trực tiếp giao thiệp cùng với thần.
Theo quan niệm của người Hmông, người đau ốm là do hồn đi chơi vắng hoặc có lọai ma bắt mất hồn đi. Các loại ma này là ma mặt trời “đá chủa tu” gây ra đau đầu, sốt nóng và chết, ma suối “đá dạ” là loại ma gây ra đau thận, bụng, chân. Do đó thầy Saman muốn chữa được bệnh, thầy phải sang thế giới bên kia tìm hồn, dụ dỗ hồn về, mặc cả với ma, đưa lễ vật cho ma để đòi lấy hồn hoặc dọa nạt chừng trị ma đòi thả hồn. Ngoài ra còn một số hình thức tôn giáo sơ khai khác: Tô tem giáo, ma thuật.
Ma thuật là một hình thức mê tín dị đoan, nó đã gây ra nhiều tác hại làm mất đoàn kết trong nội bộ dân tộc, gây hiềm khích giữa các dân tộc, nhiều khi sảy ra xung đột đổ máu.
Cư dân Hmông, Dao có nhiều tín ngưỡng và nghi lễ liên quan đến nông nghiệp. Thông thường trong mỗi khâu sản xuất, người ta phải chọn ngày tốt, giờ tốt kỹ lưỡng. Lễ cúng nương vào dịp lập thu, lễ cúng cơm mới, cúng hồn lúa đều là những lễ cúng riêng trong gia đình. Họ còn cúng các Thần chăn nuôi, thần rừng, thần đất lúc đi săn.
3. Văn học dân gian
Trong kho tàng văn hóa dân gian, nghệ thuật ngôn từ chiếm vị trí đặc biệt quan trọng. Văn học dân gian Hmông gồm nhiều loại hình: thần thoại, truyện cổ tích, các thể loại trữ tình (dân ca), tục ngữ.
a.     Thần thoại
Là tập hợp những truyện kể dân gian về các vị thần, các nhân vật anh hùng, thần linh, các nhân vật sáng tạo văn hóa, phản ánh quan niệm của thời cổ về thế giới tự nhiên và đời sống xã hội của con người nhằm nhận thức thực tại khách quan, trả lời cho được câu hỏi “tại sao và như thế nào”đã tồn tại hiện thực khách quan đó.
Thần thoại hmông gồm nhiều chuyện kể giải thích về nguồn gốc vũ trụ và các hiện tượng tự nhiên,nguồn gốc loài người. Nguồn gốc động thực vật,hình dung về các anh hùng văn hóa:chữa bệnh,tìm ra lửa,nước…thần thoại Hmông quan niệm thế giới gồm ba tầng: tầng trên trời là thế giới của tổ tiên, tầng mặt đất là thế giới con người, tầng dưới mặt đất là âm phủ. Tuy nhiên, quan niệm thế giới ba tầng còn chưa hoàn chỉnh, chỉ dưới dạng mờ nhạt.  Thế giới vũ trụ đó ra đời như thế nào? Ai là người làm ra vũ trụ? Đó là những câu hỏi thần thoại Hmông tìm cách giải quyết. Phần mở đầu “bài chỉ đường” (Khúa kê) đã hỏi:
 “Ngày xửa ngày xưa
Ai là người sinh ra mặt đất
Ai là người tạo ra bầu trời”
Và người Hmông với quan niệm sự hình thành trời đất là kết quả sáng tạo của một cặp vợ chồng “Ông chày, Bà chày”
“Bà chày sinh ra mặt đất
Ông chày tạo ra bầu trời
….Mặt đất rộng hơn bầu trời
Ông chày mới bảo Bà chày rằng
-         Mình làm được mặt đất rộng
Ta làm được bầu trời hẹp
Bà nắn đất Bà cho khớp trời của ta
Bà chày đem mặt đất khớp với bầu trời
Mặt đất mới lồi nhô thành núi cao
Mới lõm sâu thành biển, hồ, thung lũng…”
 Quan niệm này là quan niệm chung của thần thoại, một số dân tộc anh em ở trong vùng như “Ông Xổ”, “Ông công phạ”, “Ông phạ”, “Bà Xô công đin” của người Thái hoặc Ông “két đơ”, “Bà Ga ghi” của thần thoại Lô Lô. Quan niệm này của người Hmông cũng như một số dân tộc anh em khác, nhưng nguồn gốc là từ quan niệm sự sinh nở ra con người được lấy làm khuôn mẫu giải thích sự sáng tạo ra vũ trụ. Quan niệm này khác với thần thoại dân tộc Dao và dân tộc Việt: vũ trụ sinh ra do một vị thần thống nhất – Ông bà cổ hoặc Ông đống. Ông bà cổ có “đầu trời, chân là đất” – Phản ánh quan niệm “vạn vật nhất thể” mọi vật trong vũ trụ từ một nguồn gốc sinh ra.
Người Hmông xanh ở Văn bàn, trong bài “chỉ đường – khúa kê” cũng giải thích về quá trình tạo thành người:
“Ngày xửa ngày xưa – ai đã tạo nên giống người
Kể rằng: Ngày xửa ngày xưa gầu Á, dầu Âu đẻ ra người
Gầu Á trong 7 năm là gái
Dầu Âu trong 7 năm là trai
Về sau được sự mách bảo của già sấu, gầu Á, dầu Âu phải mặc đẹp ngủ ở giường hẹp và đẻ ra 1 trai, 1 gái “đứa ra trước có ngón tay to đặt tên là Chề tu, đứa ra sau có ngón tay mập đặt tên là chế blù”.
Bên cạnh sự sáng tạo ra vũ trụ, người Hmông còn có những thần thoại về những anh hùng chinh phục tự nhiên, sáng tạo văn hóa, trời đất đã hình thành nhưng vũ trụ có tới 9 mặt trời, mặt trăng:
“Chiếu cõi trần gian khô cằn tới tận 3 thước đất đen
Chiếu cõi thế gian khô khốc tận 3 thước đất vàng
Cỏ cây hoa lá trụi hết màu……………………..”
Và, trai giàng dự, gái giàng dua đã dũng cảm đấu tranh vời trời, đập vỡ toang cánh cửa nhà trời, chặt cây cỏ thụ vườn trời làm nỏ bắn mặt trời, mặt trăng”
“mặt trời thò ra 9 cái bắn tất
Mặt trăng thò ra 8 cái bắn cả”
Mặt trời lặn,vũ trụ tối đen,sau nhờ gà trống gọi mặt trời lên…thần thoại này cũng giống như thần thoại tày,giáy,dao…ca ngợi sự dũng cảm của giàng dự,giàng dua và giải thích về ngày,đêm,thời gian.
     Thần thoại Hmông có nhiều truyện về những anh hùng văn hóa tìm và dạy cho người Hmông cách trồng ngô, lúa,sèo…như truyện “ông thần nông”,sự tích cây ngô,bắp ngô khổng lồ..
Thần thoại Hmông còn mang đậm tính nguyên hợp điển hình. Do sự biến thiên lịch sử, thần thoại của người Việt hiện tồn tại dưới dạng truyện kể đơn lẻ nhưng thần thoại Hmông sống ngay trong sinh hoạt của cộng đồng. Khi cộng đồng có một thành viên bị chết, cả cộng đồng đưa tiễn.Và bài ca chỉ đường là một áng thần thoại được sống lại. Khi ông “dở mổ” đọc bài “khúa kê” ta thấy cả một quá trình diễn xướng có âm nhạc,có nghệ thuật ngôn từ...Ở đây thần thoại luôn tồn tại sống động trong nghi lễ của cộng đồng. Thần thoại gắn chặt vói những nghi lễ tang ma, cưới xin nên nó thường xuyên được diễn lại cho đến ngày nay.
Thần thoại của người Hmông lại tồn tại dưới dạng một hệ thống mang tính sử thi tương đối hoàn chỉnh.Nó có các phần về nguồn gốc vũ trụ về trinh phục vũ trụ,về nguồn gốc loài người,về nguồn gốc vật nuôi,cây trồng…Tất cả các phần này kết cấu chặt chẽ trong áng văn chương giá trị: bài ca chỉ đường- khúa kê.
b. Truyện cổ tích.
Truyện cổ tích Hmông khá phong phú. Nhà sưu tầm Doãn Thanh và các tác giả ở Lào Cai đã sưu tầm 129 truyện cổ tích. Truyện cổ tích Hmông gồm:
-truyện cổ tích động vật
-truyện cổ tích thần kỳ
-truyện cổ tích sinh hoạt xã hội
·        Truyện cổ tích động vật:
Trong vốn truyện cổ tích Hmông, truyện cổ tích động vật chiếm một vị trí quan trọng. Trong đó số truyện nói về loài động vật, chủ yếu là phản ánh đặc điểm của loài vật –đó là truyện giải thích tại sao con mèo trèo cây giỏi, vì sao con ễnh ương lại kêu to, tại sao con rùa lại rụt cổ trong mai?...tiêu biểu là truyện “cá tham ăn, rùa bị nạn”. Các truyện khác chỉ kể một sự tích nhưng các chuyện này như tổng hợp các sự tích về các loài thú khác nhau.Trong hệ thống truyện cổ này có những chùm truyện cổ về lợn, gà,bò…Các truyện cổ này vừa giải thích các nghi lễ, tín ngưỡng liên quan tới con vật, ví dụ truyện sự tích mào gà, sự tích gà gáy sáng và sự tích gà dẫn đường cho hồn chết về thế giới bên kia, sự tích gà là vị thần bảo vệ ma cửa “xìa mềnh”…Qua các truyện này, người Hmông muốn trao truyền cho thế hệ sau những tri thức về thế giới tự nhiên, gắn liền nghi thức tín ngưỡng để nhằm vừa chinh phục, sử dụng tự nhiên vừa nhớ thực hành nghi lễ tín ngưỡng.
Một số truyện cổ khác về loài vật là những truyện có xu hướng ngụ ngôn hóa, những truyện này thường đối chiếu các quan hệ xã hội loài người vào quan hệ xã hội loài vật. Truyện “chim sáo và núi đồi” nhằm phê phán tính khoác lác, láu cá của kẻ đưa chuyện.
Truyện cổ tích về các loài vật ở người Hmông có một số đặc điểm sau:
-Nhân vật chính trong các truyện cổ tích loài vật là các con vật. Các con vật ở truyện cổ tích là các con vật. Các con vật ở truyện cổ người Hmông gồm hai loại: loại vật được thuần dưỡng và loại thú hoang. Tuy nhiên, truyện kể về các loài vật ở rừng, các loài dã thú chiếm tỷ lệ cao. Điều này phản ánh địa bàn cư trú của người Hmông sinh sống ở các khu rừng núi cao có nhiều dã thú, nghè săn bắn động vật hoang sã vẫn chiếm một vị trí quan trọng.
-Cốt truyện và kết cấu của truyện cổ tích loài vật thường rất đơn giản, gồm 4 phần chính: phần trình bày, thắt nút, mở nút, giải thích vì sao có các đặc điểm của loài vật. Đối tượng thưởng thức nghe kể chuyện chủ yếu là trẻ em, do đó cách kể, cốt truyện cũng cần phải giản dị, dễ hiểu, không phức tạp như truyện phản ánh xã hội loài người và đối tượng nghe là người lớn.
* Truyện cổ tích thần kỳ:
Truyện cổ tích thần kỳ là một bộ phận tiêu biểu nhất trong truyện cổ tích Hmông. Trong số 129 truyện cổ tích Hmông thì có tới 71 truyện là truyện cổ tích thần kỳ. Nhiều truyện cổ tích hay nhất được đông đảo người hmông yêu thích đều thuộc loại truyện cổ tích thần lỳ mhư truyện “chê hấu”, ‘chàng bí”. Truyện cổ tích thần kỳ là một loại hình truyện cổ tích, trong đó yếu tố thần kỳ đóng vai trò quyết định đến việc giải quyết xung đột của truyện, yếu tố thần kỳ chi phối quá trình phát triển dẫn dắt câu chuyện. Truyện cổ tích thần kỳ có hai loại chính:
-Truyện về các dũng sĩ tài ba:là truyện khá hấp dẫn, có tới 34/71 truyện cổ tích thần kỳ là truyện dũng sĩ tài ba. Chủ đề của loại truyện này nhằm ca ngợi những chàng trai khỏe mạnh, kỳ tài, có công chinh phục tự nhiên, mở mang làng bản, diệt trừ yêu quái…Nổi bật là truyện “chê hấu’.
Những chuyện dũng sĩ tài ba người Hmông chống thiên nhiên thường phân chia nhân vật thành ba loại chính:các dũng sĩ tài ba thần kỳ, các kẻ thù có phép lạ và các nạn nhân là người dân bình thường. Ở mỗi loại nhân vật khác nhau nhưng đều phản ánh sản xuất nông nghiệp nương rẫy ở vùng cao.Các truyện dũng sĩ tài ba của người Hmông còn ca ngợi sức mạnh cộng đồng.
Bên cạnh các truyện dũng sĩ diệt trừ yêu ma phá hoại mùa màng, cứu gúp dân bản, còn một số truyện dũng sĩ chống lại bọn thổ ty, giặc ngoại xâm như: Chín chàng trai kỳ tài, người em thông minh, páo xử trảng…
Truyện về các dũng sĩ tài ba của các dân tộc Hmông khá phong phú và thể hiện một quá trình biến chuyển. Từ chủ đề đấu tranh với thiên nhiên, bảo vệ mùa màng, dân bản, chuyển sang đấu tranh xã hội chống ách thống trị của vua quan, thổ ty, chống giặc ngoại xâm. Kết cấu nhân vật cũng thay đổi. Những truyện đầu tiên là về anh em cùng một dòng máu mẹ, đến những anh em kết nghĩa, đăc biệt từ một tập thể dũng sĩ đến một dũng sĩ, từ việc ca ngợi sức mạnh cộng đồng đến ca ngợi sức mạnh cá nhân.
- Truyện mồ côi:
Truyện mồ côi ở văn học dân gian Hmông khá phong phú. Gia đình lớn tan rã, xung đột xã hội được phản ánh ngay trong gia đình, nảy sinh mâu thuẫn giữa người anh với em trai. Tiêu biểu là truyện “anh em mồ côi”
Kết cấu truyện mồ côi thông thường theo mô hình:chàng mồ côi bị hành hạ khổ cực sau được các lực lượng thần kỳ giúp đỡ ban cho báu vật , kẻ áp bức xung đột với mồ côi về sau mồ côi đều chiến thắng, các đối thủ của mồ côi bị trừng trị…
Một số ít truyện khác nhân vật mồ côi lại là những “chàng lười” hoặc người con gái xấu xí, thông minh, bất hạnh…,cơ sở xung đột của các truyện cổ tích này vẫn là những người anh, tham lam ích kỉ, những kẻ giàu thống tri.
Bên cạnh loại truyện dũng sĩ tài ba, truyện mồ côi, truyện cổ tích thần kỳ Hmông còn có một số truyện về người đội lốt thú. Đó là “Ếch lấy con vua”, “Đrầu náng”, “chàng cóc xấu xí”,“chàng dê”. Những truyện cổ này phản ánh quan niệm của người dân Hmông: những người bất hạnh bị khinh miệt sẽ chiến thắng.
·        Truyện cổ tích sinh hoạt xã hội:
Truyện cổ tích sinh hoạt xã hội chiếm một tỷ lệ khiêm tốn. Nổi bật là các truyện cổ nói về quan hệ gia đình. Các truyện này đều có chung một cốt truyện tương tự: vợ chồng đang sống hạnh phúc, chổng phải đi xa nghe lời xúc xiểm của kẻ khác (hoặc lấy vợ khác) ruồng rẩy vợ con, kết thúc là bi kịch phải sống trong đau khổ, nhớ thương hối hận nhưng đã muộn.
Bên cạnh các tiểu loại cổ tích trên ở người Hmông Lào Cai còn có truyện cổ tích truyền thuyết gắn liền với lịch sử chống ngoại xâm, chống sự no dịch bành trướng Đại Hán. Truyện “núi Vạ Ký” thấm đẫm máu và nước mắt. Truyện kể về người Hán tinh ranh cướp đất của người Hmông.
Một số truyện tiêu biểu: viên ngọc ước,núi vạ ký, a sính gặp may, chàng páp ngốc nghếch…
c.Tục ngữ
Tục ngữ là “lời ăn tiếng nói của nhân dân”, “tục ngữ là thể loại văn học dân gian nhằm đúc kết kinh nghiệm, tri thức, nêu lên những nhận xét, phán đoán, lời khuyên răn của nhân dân dưới hình thức những câu nói ngắn gọn, súc tích có nhịp điệu, dễ nhớ, dễ truyền”.
Trong đời sống người Hmông, tục ngữ được sử dụng vào những buổi trò chuyện, làm nương hoặc bên bếp lửa hồng buổi tối. Tục ngữ trở thành lời răn dạy của cha mẹ với con cái, lời khuyên của người già với thanh niên.
Tục ngữ Hmông phản ánh tri thức và kinh nghiệm sống của người Hmông trong lịch sử. Nội dung phản ánh của tục ngữ người Hmông thể hiện tập chung ở 3 vấn đề chính: Phản ánh kinh nghiệm sản xuất của nhân dân, phản ánh các mối quan hệ xã hội và phản ánh lối sống cùng những ứng xử của người Hmông.
Quan hệ xã hội người Hmông được phản ánh trong tục ngữ gồm nhiều mặt: quan hệ cộng đồng gia đình (vợ chồng, bố mẹ - con cái và anh em), quan hệ cộng đồng dòng họ, quan hệ công đồng làng, quan hệ đẳng cấp và giai cấp.
Như vậy cộng đồng mang tính chất huyết thống (gia đình, dòng họ) thể hiện rất đậm nét trong xã hội người Hmông. Người Hmông coi trọng quan hệ gia đình – tế bào của xã hội.
Tục ngữ phản ánh cộng động gia đình với 3 mối quan hệ chính: quan hệ vợ chồng, quan hệ cha mẹ - con cái, quan hệ anh em. Trong đó quan hệ vợ chồng, quan hệ cha mẹ con cái được đề cao hơn quan hệ anh em.
Trong các mối quan hệ xã hội, quan hệ nam nữ cũng được đề cao ở tục ngữ Hmông. Riêng vấn đề này có tới 25 đơn vị phản ánh (chiếm 6,2%). Quan hệ nam nữ - thực chất là quan hệ tình yêu có tới ánh khát vọng yêu đương, 32% số đơn vị ca ngợi tình yêu chung thủy, phê phán quan niệm không lành mạnh về tình yêu.
Trong vấn đề lựa chọn bạn đời có tới 70% đề cao phẩm chất: chăm làm, tháo vát, chung thủy của người bạn đời:
“Gái đẹp không biết làm lanh cũng xấu
Trai khoe không biết làm nương rẫy cũng hèn.
Chỉ có 19% đề cao sự giàu có, 11% đề cao sắc đẹp. Như vậy, người Hmông luôn đề cao giá trị tinh thần, đạo đức. Trong đó tiêu chí chăm làm, tháo vát là tiêu chí hàng đầu để chọn bạn đời.
Nội dung lớn thứ hai của tục ngữ Hmông là phản ánh về phương thức ứng xử lối sống của người Hmông. Tục ngữ là “lời nói hay” nên nó có giá trị giao tiếp quan trọng. Do đó, trong ứng xử giao tiếp, người Hmông rất coi trọng đến lời nói, có tới 46,78% đơn vị tục ngữ trong giao tiếp ứng xử liên quan đến lời nói “Biết nói người ta yêu, người ta quí – Vụng nói người ta ghét, người ta giận”. Vì vậy, tục ngữ khuyên “nghĩ trước nói sau”. Có tới 40% đơn vị tục ngữ về lời nói đều khuyên nói ngắn nói ít, không nên ba hoa “có thuốc hút thêm điều – có chuyện nên giảm lời”.
Trong lối sống và trong tục ngữ người Hmông luôn đề cao các phẩm chất như: cần cù lao động, đoàn kết cộng đồng, trung thực – thẳng thắn, hiếu khách. Đồng thời tục ngữ Hmông cũng phê phán kịch liệt các tệ nạn xã hội, các thói hư tật xấu.
Nội  dung thứ 3 của tục ngữ Hmông là phản ánh kinh nghiệm sản xuất. Lao động sản xuất nương rẫy ở vùng cao phụ thuộc rất nhiều vào thời tiết, khí hậu. Người Hmông luôn coi trọng quan sát nhận xét mưa nắng, gió bão…Trải qua thực tiễn sản xuất, người Hmông tích lũy được nhiều kinh nghiệm về ngữ Hmông về kinh nghiệm về quy luật diễn biến của thời tiết.
 Trong kinh nghiệm trồng trọt, tục ngữ phản ánh kỹ thuật chọn đất làm nương “Trồng ngô chọn chân đồi – trồng lúa chọn cuối khe”. Kỹ thuật làm đất “Nương không cày (đất) không xốp – Người không khuyên không tỉnh”, hoặc vun trồng “vun ngô đất bám mắt ăn không hết”, kinh nghiệm thời gian gieo trồng: “gieo ngô sớm đơm cỏ - gieo (ngô) muộn đựng mưa”.
d.Dân ca
Dân ca Hmông là những bài hát do nhân dân tự sáng tác và lưu truyền trong dân gian. Các bài ca này có phần lời ca, âm nhạc và cả nghệ thuật diễn xướng.
Dân ca Hmông có 3 loại chính:
-         Dân ca giao duyên
-         Dân ca than thân
-         Dân ca nghi lễ phong tục gia đình
* Dân ca giao duyên
Dân ca giao duyên là những bài dân ca về tình yêu nam nữ.  Ở Lào Cai trong số 187 bài dân ca Hmông được sưu tầm xuất bản giới thiệu thì có tời 140 bài là dân ca giao duyên, chiếm tỉ lệ 74,86%.
Nam nữ thanh niên Hmông hát “gầu Plềnh” trong khi đi chơi chợ, trong ngày hội “gầu tào” hoặc vào những buổi làm nương lấy củi…Hát giao duyên gồm những bài hát tỏ tình, tương tự, thề thốt đến các bài ca thần tình yêu đổ vỡ vì những éo le trắc trở…Lời tỏ tình của các chàng trai Hmông thường khéo léo tế nhị, mượn những cảnh vật để nói hộ lòng mình “ruộng cấy mạ muộn – lúa chín trĩu bông vàng”. Hoặc băn khoăn ướm hỏi nhẹ nhàng:
“Ta mua gói thuốc gửi tới ai mà chưa dám gửi
Đành để gói thuốc hả hơi
Ta mua gói thuốc muốn chuyển tới ai mà chưa dám chuyển
Đành để gói thuốc nhạt khói”
Khi yêu, những chàng trai cô gái chưa chạm phải thực tế gai góc, họ thường “lý tưởng hóa”, “thi vị hóa” cả người yêu lẫn tình yêu. Do đó tình yêu trong các bài dân ca Hmông thuộc loại tỏ tình thường rất đẹp. Dân ca giao duyên luôn đề cao tình yêu chân chính, coi trọng hạnh phúc gia đình, phản ánh những khát vọng đẹp về tình yêu:
“Gió về thổi lá cây bên khe
Nếu ta là hạt mưa sương
Ta xin tan trên bàn tay nàng
Gió thổi lá cây lật ngả nghiên bên suối
Nếu ta là hạt mưa sương
Ta xin tan dưới bàn chân nàng”
Tình yêu càng đẹp khi hai người yêu nhau đều nguyện thủy chung bên nhau. Chung thủy là giá trị hàng đầu trong tình yêu người Hmông.
* Dân ca than thân:
Đó là những tiếng khóc than trước cảnh đời khổ cực và ngang trái, là nỗi đau ai oán của người mồ côi, nỗi u uất cơ cực của người làm dâu. Dân ca than thân cũng là những bài ca phản kháng, vượt lên hoàn cảnh khó khăn, thoát khỏi xã hội hà khắc.
Khi xã hội bắt đầu có sự phân chia giàu nghèo, bi kịch gia đình xảy ra đầu tiên. Đó cũng là hoàn cảnh ra đời của những bài ca than thân, cũng như những truyện cổ tích về chàng mồ côi, người em út, người con dâu, nhân vật chính trong các bài ca trữ tình là những người bất hạnh. Người mồ côi ca lên những lời ai oán:
“Mồ côi không cha, không mẹ, không anh, không em
Ngày không có chỗ trú, đêm không có nơi ngủ
Mặt trời mọc, mồ côi theo mặt trời mà khóc
Mặt trời lặn, mồ côi theo mặt trăng mà than”
Và không chỉ dừng lại ở những lời kêu than, tiếng hát mồ côi còn là tiếng hát phản kháng. Khổ đau uất hận dồn nén, người mồ côi sẽ vùng lên đánh trả kẻ thù một cách quyết liệt”:
“Quạ đen độc thật độc
Nương ta gieo, mày ăn không còn một hạt thóc
…Mồ côi nghĩ lại càng sôi gan
Mới tóm quạ đen quật vào tảng đá
Máu mỡ quạ đen tanh tưởi bám vung vãi khắp trần gian”
Từ tiếng kêu than ai oán cho số phận, mồi côi vùi nỗi đau vào cái chết, hoặc mơ ước sống hạnh phúc với cô gái mồ côi, đến việc tự khẳng định niềm tin, tự vùng lên. Đó là bản lĩnh người Hmông, bản sắc trong dân ca Hmông.
Trong gia đình phụ quyền, người vất vả nhất gánh nặng cuộc sống và tập tục đè nặng đôi vai là người con dâu. Họ là nạn nhân của những tệ nạn tảo hôn, cưỡng hôn lại phải làm việc quần quật suốt ngày đêm mà vẫn bị coi thường, đày đọa. Vì vậy, giữa những đêm thanh vắng hay khi đi làm nương, thậm chí cả trong đám cưới bè bạn, các cô dâu thường cất lên tiếng hát ai oán-tiếng hát làm dâu. Tiếng hát làm dâu là tiếng hất thấm đẫm nước mắt khóc than cho cảnh sống cùng cực, than cho thân phận làm dâu, nguyền rủa chế độ phong kiến bất công. Đồng thời tiếng hát làm dâu cũng là tiếng hát căm phẫn, phản kháng xã hội cũ.
Khổ đau, uất ức vì bị đối xử tệ bạc, người phụ nữ làm dâu Hmông muốn vùng vẫy giải thoát mình. Nhưng cả xã hội đều như vậy, người Hmông không thể thoát thân được, thậm chí có khi họ còn bị vùi dập nặng nề hơn:
“Chị muốn vùng thoát khỏi, người chị đau ê ẩm
Chị muốn vùng thoát khỏi, thân chị đau như dần”
Tuy nhiên, trong tiếng hát làm dâu, một số bài ca ngợi sự phản kháng chống đối mãnh liệt của người con dâu với mẹ chồng. Người con dâu dám lớn tiếng đấu tranh với mẹ chồng, đồi quyền tự do, khao khát sống tự do, được thoát khỏi cảnh làm dâu ở gia đình cay nghiệt:
“Bà không ưa tôi, bà hãy kêu họ nhà tôi tới nói
Nói cho bỏ thật chân, buông thật tay
Tôi sẽ theo chân họ nhà tôi, tôi đi
…Lúc ấy tôi sẽ vỗ tay nhảy
Vui mừng như người đi làm ăn”
·        Dân ca gắn liền với nghi lễ-phong tục gia đình.
Dòng đời người Hmông đều theo một chu kỳ: sinh ra, lớn lên, kết hôn vợ chồng, sinh con đẻ cái, già rồi đi vào lòng mẹ. Chảy vào vòng đời ấy là dòng suối dân ca. Từ khi cất tiếng khóc chào đời đến lúc nhắm mắt suôi tay về với tổ tiên, người Hmông luôn tắm mình trong các nghi lễ phong tục liên quan tới chu kỳ đời người.
Một đứa trẻ ra đời là niềm vui của cha mẹ, gia đình và cả cộng đồng dòng họ. Trong lễ “nhập cữ”, bên cạnh những kỷ vật như kiềng cổ bạc, khối sắt của ông cậu, chiếc mũ của bà ngoại…đứa trẻ mới sinh còn được bà cúng mụ trao truyền cho tiếng hát ru. Tiếng hát ru được cất lên sau những lời cầu khấn tổ tiên, lực lượng siêu nhiên phù hộ đứa trẻ khỏe mạnh. Lời bài hát ru là niềm mong ước của cả cộng đồng đối với đứa trẻ, mong đứa trẻ khỏe mạnh, lớn khôn:
“Này bé ngoan ta ơi
Đừng giãy đừng đạp
Bé ơi đừng hờn dỗi
Bé lớn nhanh thành quả đồi”
Hát ru-những giọt nước đầu tiên của dòng suối dân ca thấm dần vào tâm hồn bé thơ. Hát ru-những tình cảm đầu tiên của cộng đồng trao truyền cho thành viên mới. Như vậy, với điệu hát ru, tín hiệu mã di truyền về văn hóa của cả cộng đồng trao cho đứa bé. “Quan trọng hơn, ngày lễ còn là một dịp dể toàn thể cộng đồng tuyên thệ giữ gìn văn hóa dân tộc”
Lễ cưới là sự kiện quan trọng của cả đời người. Lễ cưới là ngày vui của cô dâu chú rể nhưng cũng là ngày vui mang tính chất ngày hội của cả cộng đồng. Vì vậy, dân ca đám cưới “Gầu Xồng” đóng vai trò rất quan trọng trong lễ cưới người Hmông. Lễ cưới thường có 3 lễ chính: lễ hỏi và so tuổi, xin ngày cưới và trả lễ vật, lễ cưới. Lễ cưới người Hmông diễn ra như một trò diễn có nhân vật, kịch tính, có cái thực và có cái ước lệ truyền thống.
Các bài hát trong lễ mừng cưới thường mang chủ đề chúc tụng cô dâu chú rể, chúc gia đình nhà trai cưới được nàng dâu hiếu thả. Tuy nhiên, người dự lễ cưới cũng hát những bài hát vui, câu đố, hát giải về sự tích các loài vật, loài người, vũ trụ…Mặt khác trong lễ cưới người Hmông còn hát những bài hát than thân, hát giao duyên. Như vậy, trong lễ mừng cưới những bài hát than thân, hát giao duyên đã vượt khỏi chức năng dân ca, nghi lễ, phong tục. Nhân vật chính của lễ liên hoan mừng cưới không phải là các ông mối mà là một nghệ nhân có tài ứng đáp và bài hát “gầu xuồng”. Ông ta là người chủ trì cuộc hát, các bài nghi lễ dẫn chuyện.
Trong dân ca đám cưới người Hmông, người diễn xướng đã tách ra khỏi các vai trò chính trong sinh hoạt hôn lễ mà chỉ đóng vai trò trung gian qua nhân vật ông mối. Ở đây sinh hoạt dân ca đã bắt đầu xuất hiện các yếu tố gián tiếp báo hiệu sự tách dần văn hóa tinh thần với sinh hoạt đời sống.
Suốt chặng đường đời, dân ca luôn đi với người Hmông và khi con người khuất núi trở về với tổ tiên, dân ca lại đóng vai trò quan trọng trong tang lễ. Lễ tang người Hmông có 2 ý nghĩa chính: Biểu lộ tình cảm đau thương của người thân với người đã khuất và dẫn dắt hồn người chết về với tổ tiên. Dân ca Hmông trong lễ tang cũng có 2 phần như vậy. Phần thứ nhất mang tính chất buồn thương, khóc than người chết hoặc các bài cúng theo nghi lễ Hmông. Phần thứ 2 là bài ca chỉ đường “khúa kê”. Bài khúa kê thật sự là những mảnh vỡ vụn của hệ thống thần thoại Hmông.
Phần hát nghi lễ của tang ma đều do ông “ chí xáy” đảm nhiệm. Phần này gồm các bài “ đại đám” dùng cúng đám ma to và bài tiểu đám dùng cúng đám ma nhỏ. Ngoài ra còn có bài Giao ân huệ và các bài khèn, bài khóc than…nội dung các bài này đều đề cao công ơn người chết, đồng thời cũng là tiếng khóc than của người thân, con cháu với người đã khuất.
“Bố chết nằm trong săng, gan con cắt từng khúc
Bố chết nằm trong ván, tim con cắt từng đoạn”
Trong lễ cưới cũng như trong lễ tang, các nghi lễ được quy định rõ. Do đó, các bài ca đều được chuẩn bi kỹ, có khuôn mẫu sẵn và các nhân vật tham gia phần nghi lễ của đám cưới đám tang đều có vai trò rõ ràng. Khi nào ông mối vui cười, khi nào ông mối suy tư trầm mặc… Đều được quy định. Và nét mặt, giọng điệu của người làm “dở mổ” đọc bài ca chỉ đường “khúa kê”, làm “chí xáy” đều được xác định cụ thể, được vạch sẵn từ trước. Các bài hát của ông mối, bài ca chỉ đường được hát trong hoàn cảnh cụ thể phục vụ cho nghi lễ. Ở đây sinh hoạt văn học nghệ thuật dân gian gắn chặt với sinh hoạt đời sống, đồng thời bộ phận  ngôn từ gắn bó chặt chẽ với âm nhạc vũ điệu, tạo hình.
Nhìn chung đời sống văn hóa tinh thần của người Hmông là một lĩnh vực đặc thù của đời sống xã hội,đời sống văn hóa tinh thần bao gồm nhiều loại hình văn hóa.Đời sống văn hóa tinh thần của người hmông vận động và phát triển thông qua các khâu sản xuất,nhu cầu,phổ biến và tiêu dùng văn hóa là quá trình sản xuất và tái sản xuất không ngừng các giá trị văn hóa tinh thần.Các lĩnh vực,các quá trình này có mối liên hệ qua lại,gắn bó thúc đẩy lẫn nhau.Đời sống văn hóa tinh thần vừa là sự phản ánh,vừa tác động tích cực trở lại đời sống vật chất của xã hội Hmông.

3 Lễ hội.
a. Lễ “nào xồng” của cộng đồng “giao”
      Hàng năm diễn ra vào ngày thìn của tháng giêng, các “giao” đều tổ chức họp hội. Thành phần dự hội là các chủ gia đình, người chủ trì hội là “lùng thầu” được bầu mỗi năm một lần
- Lễ cúng thổ thần:người hmông thờ thần “thổ ty”.Theo quan niệm thần thổ địa là vị thần bảo vệ an toàn cho người và gia súc. Nơi thần ngự là 1 gốc cây to,1 hòn đá lớn.Đồ cúng là rượu,2 con gà và một con lợn nhỏ. Người hội đầu tay cầm 3 nén hương đang cháy và 2 con gà chưa mổ đọc bài cúng.Nội dung bài cúng là cầu mong thần bảo vệ người khỏe mạnh,gia súc đông…sau đó mổ lợn ăn uống.

- Bàn bạc công việc của hội:các thành viên bàn bạc thống nhất những quy ước chung và nếu thống nhất thì phải uống 1 bát rượu để thực hiện đúng quy ước.
- Bầu “hội đầu” mới:Các đại diện gia đình đều bầu ra 1 ông “lùng thầu” mới và 1 ông hội phó giúp việc cho năm tới.Những người này có quyền giám sát những người trong giao, phải thực hiện đúng quy ước,xử phạt những vi phạm.
                 
b. Lễ hội “gầu tào”: Là lễ hội quan trọng ở vùng,người hmông.Lễ hội nhằm mục đích cho gia chủ cầu con,cho cộng đồng được mùa “người yên,vật thịnh”.Địa điểm mở hội là khu đất tương đối trống,thuận tiện đi lại,diễn ra từ 1 đến 3 ngày.

Gautao.jpg
Lễ hội gầu tào
Ngay từ trước tết, gia chủ đã trồng 1 cây nêu. Trên ngọn nêu treo 1 dải vải đỏ, 1 dây giấy bản to xúng xính,1 quả bầu khô đựng rượu. Điệu múa khèn, các nghi lễ khai hội mở đầu, tiếp theo là cảnh hát hội “chù gầu tào” và khách ở xa, gần đều tham gia các trò vui. Đám bắn thi nỏ quy định tiêu điểm bằng 1 chiếc lá nhỏ hay 1 hạt ngô. Người
thắng cuộc được thưởng bầu rượu….
Hết thời gian mở hội thầy cúng và các cụ già làm lễ hạ cây nêu. Thân cây nêu gia chủ đem về làm lát giường mong sớm có con.Bầu rượu được đổ tung ra khắp 4 hướng,mảnh vải đỏ được gia chủ đem về treo trong nhà cầu mong hồng phúc.
Bên cạnh hệ thống những lễ thức liên quan đến chu kì đời người và các lễ thức cộng đồng, người hmông còn có 1 vài nghi lễ liên quan đến sản xuất như:lễ cúng cầu mùa,lễ mừng con cái đầy năm…

                                    Trò chơi chọi cù



 Múa kMúa khèn trong ngày hội



Lễ hội Gầu Tào trở thành trung tâm của mọi lễ hội trong mùa xuân đối với người Mông, người Hà Nhì, người Dao, người Lô Lô... của 8 xã biên giới khu vực Dào San
                 Trò chơi kéo co






V.Tổ chức xã hội

1. Quan hệ xã hội trong chế dộ  thực dân phong kiến
Trong xã hội thực dân phong kiến, ngoài tính chất thực dân nửa phong kiến chung của cả nước xã Mông còn giữ lại nhiều tàn dư cổ xưa.

Đứng đầu là bọn thực dân phong kiến. Chúng cải tạo bộ máy sẵn có trước kia thành tổ chức chính quyền cơ sở. Bộ máy đó là:
*Seo phải,Mã phải coi một bản
*Trúng truổ coi một thôn
*Thống lý hay Tổng giáp coi một vùng

Giúp việc cho thống lý có phó thống lý (thực chất coi một vùng riêng).Tuy sống xen kẽ với các dân tộc anh em, một số nơi những đon vị hành chính của người Mông là đon vị trực thuộc riêng của Pháp. Những người trong bộ máy thống trị đều thuộc tầng lớp trên hay những người đứng đầu dòng họ lớn có uy tín trong quần chúng.

             Bộ máy hành chính trên mà những người đại diện sẽ điều hành công việc như thu thuế, bắt phu, đảm bảo trật tự trị an. Thuế ở vùng Mông có nhiều loại: thuế hộ, thuế nương rẫy, thuế sinh tử...về bắt phu thì mỗi năm mỗi người đàn ông phải đi phu 2,3 lần mỗi lần 15-20 ngày

Lý dịch có một số đặc quyền như:

*Sử dụng người làm tạp dịch như liên lạc, chăn ngựa, đun nước…gọi là Tỷ súng. Những người này được miễn phu
*Đi đâu cũng có Dõng (Thú dung) bảo vệ
Tý súng và Dõng làm việc dưới sự ddieuf khiển của Cai(xì tráng)

Ở vùng du canh du cư người khai phá có quyền chiếm hữu đất đai. Trường hợp di cư đi nơi khác họ nhường lại cho an hem họ hàng, có khi họ nhận một khoản tiền nhất định. ở vùng này sự phân hóa giai cấp chưa rõ ràng. Những người khá giả là do nương tốt, biết nghề thủ công giỏi, nhiều lao động hoặc là lý dịch đương chức: người dân đến làm rẫy cho họ và nhân biếu xén. Nhiều người tuy khá giả nhưng vẫn tham gia lao động tích cực, có quan hệ chặt chẽ với bà con hàng xóm. Họ thuộc tầng lớp trên của xã hội.

Tại nơi định canh định cư, quyền sở hữu tư nhân về đất đai đã xuất hiên. ở đây đã có việc mua bán đất dai và và việc phu thuế. Nhiều địa chủ đã phát canh thu tô chiếm 40-50% đất đai của địa phương . chủ yếu địa chủ bóc lột nhân công bằng cách thuê hoặc dựa vào chức quyền tập hợp dân làm. Địa chủ và phú nông còn cho thuê trâu cày vay lãi, đọc quyền buôn bán thuốc phiện.

Nông dân lao dộng ít đất đai, làm ăn vất vả nhiều khi phải di làm thêm để sống.

2.Quan hệ thôn xã dòng họ

Đơn vị cư trú của người Mông là giao (tương đương với làng của người kinh). Mỗi giao gồm từ một vài nhà cho đến hàng trăm nhà trên một địa điểm hoặc nhiều địa điểm. địa điểm chung của giao là:

                 *Mỗi giao có một phạm vi cư trú và đất đai làm ăn riêng
                 *Dân cư mỗi giao gồm nhiều họ và trong đó thường có một họ đông hơn nhưng nhiều giao chỉ có một họ
                 *Mõi giao có một thổ thần chung và các quy ước chung có liên quan đến hoạt động sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi, bảo vệ rừng và giúp đỡ lẫn nhau. Hằng năm được kiểm điểm bàn bạc khi cúng thổ thần
                 *mỗi giao có một hoặc hai người đứng đầu theo chế độ luân phiên, lo đôn đốc thực hiện các quy ước chung gọi là ‘Lùng thầu’ hay ‘Sống thầu’
                 *Các giao tương trợ lẫn nhau trong đời sống sản xuất
                 *Dư luận xã họi và những phạt vạ nghiêm ngặt là biện pháp đảm bảo cho các quy ước chung được thực hiện.

Tổ chức xã hội có phạm vi rộng hơn giao gồm nhiều bản hay nhiều xã gọi là giồng. giồng cũng có các quy ước chung, cúng thổ thần, ăn tập thể khi cúng. Tuy nhiên người đứng đầu không do dân cử mà do một chức dịch có chức vụ cao nhất địa phương đảm  nhận.

Người Mông quan niệm rằng các dòng họ của mình sinh ra từ một ông tổ, tuy ông tổ đó được gọi khong thống nhất. các dòng họ phổ biến là: Giàng, Thào, Lù, Vù, Sùng, Mã, Lùng, Hầu, Ly…nhiều tên họ các dòng họ là tên súc vật, các hiện tượng tự nhiên hoặc gắn với một quan niệm kiêng kị nhất định .

Mặc dù mỗi dòng họ người Mông đều được giải thích bằng các quan niệm nhất định và có sự phân biệt với các dòng họ khác song không phải những người cùng họ đều có quan hẹ thân thuộc. họ cho rằng những người cung dòng họ (cùng tổ tiên)là có thể đẻ hoặc chết trong nhà của nhau mà không sợ tổ tiên trách cứ, luôn cưu mang nhau trong đời sống.

Mỗi họ có nghi lễ cúng tổ tiên: ma chay chôn cất riêng.đối với người Mông các lễ cúng ma cửa(xia mình), ma mụ(đá trung), ma lợn(bùa đáng), ma trâu(nhìu đáng) rất quan trong mà sự khác nhau giữa các dòng họ là ở số lượng bát cúng, cách bày đặt các bát, chỗ cúng và ăn, bài  cúng…trong đám ma có sự phân biệt cách đặt xác trước khi đưa lên ‘’cáng’’, để xác ngoài trời trước khi chon. Cách đặt mả ở các họ cũng khác nhau.

Quan hệ hôn nhân giữa những người cùng hojbij cấm triệt đẻ. Trường hợp không phải là anh em nhưng cùngtên họ lấy nhau cũng không phổ biến. Dòng họ cho rằngphải có quan hệ hôn nhân với dòng họ khác thì làm ăn mới tốt,có trường hợp hôn nhân chỉ với một họ.

Sự giúp đỡ lẫn nhau giữa những người cùng họ bằng lao động và tiền của được thực hiện đầy đủ khi nhà nào nhà đó có việc ma chay, cưới xin… Trong đám ma chỉ có người trong dòng họ mới khiêng quan tài. Mỗi họ có một trưởng họ đảm nhiệm các công việc chung. Trưởng họ thường là những người có khả năng, không kể tuổi tác ngôi thứ và được mọi người tôn trọng ủng hộ và nghe lời.

* Gia đình và hôn nhân.       
                                                                                    
Gia đình ở người Mông là gia đình nhỏ phụ hệ mà tính chất nó được thể hiện trong nhiều tập tục. Người con gái sau khi qua lễ “nhập môn”được coi là thuộc hẳn nhà chồng. Cô dâu ở hẳn nhà chồng sau lễ lại mặt. Nếu họ muốn về thăm bố mẹ đẻ phải đượ gia đình chồng đồng ý và có chồng đi cùng. Cô dâu làm lụng vất vả mà vẫn bị chê. Khi có mối bất hòa trong gia đình cô dâu cũng chỉ dám lánh tạm sang nhà hàng xóm, ít khi về với bố mẹ đẻ rồi theo sự dàn xếp của bà con mới trở lại nhà chồng. Khi li dị người con gái không được về sống với bố mẹ đẻmà dến ở nhà chức dịch cho đến khi tái giá. Người đàn bà góa nếu không lấy em chồng mà lại lấy người khác thì tài sản, con (trừ con nhỏ) phải để lại cho chồng.Ở một số nơi một nửa số con gái được đi theo mẹ. Người tái giá con phai trả lại chồng cũ “tiền đầu”khi lấy chồng mới. Tuy nhiên, có trường hợp nhà chồng đối xử với con dâu không đúng buộc con gái phải quay về với bố mẹ đẻ. Lúc đó, bố mẹ chồng phải mất tiền “tạ lỗi”thì mới đưa cô dâu trở lại nhà mình.

Cũng như trong gia đình nhỏ phụ quyền khác người con trai Mông rất được quý trọng. Người đàn ông đi cày, khấn tổ tiên, đón thầy cúng, thay mặt cho gia đình trong các công việc làng xóm mà phụ nữ không làm được. Có nhiều con trai là mong ước của mọi người. Những gia đình không có con trai sau khi chồng chết ít quan tâm tới việc thờ cúng tổ tiên. Ở người Mông không có tục lấy rể đời mà chỉ lấy rể tạm. Tâm lý người con gái tự cho mình là khách khá phổ biến Khi còn ở với bố mẹ mình người con gái không phải kiêng là xon dâu (không ăn tim các con vật 4 chân, khôn lên gác...).

Việc gia đình con được chú trọng nhiều mặt. on trai không những cần lao động ioir có đạo đức tốt mà còn cần biết khấn tổ tiên. Em trai 13,14 tuổi đã làm nương thạo;17,18 đã lao động giỏi,nắm được nghề thủ công truyền thống của gia đình. Nhưng để trở thành người lớn thực sự họ còn thay tên cũ đặt tê mới.

Con trai chia phần tài sản đều nhau. Bố mẹ giữ cho mình tài sản ngang với phần các con để sinh sống và sau này dung để chon cất. Con út nếu chưa lấy vợ thì được phần tài sản nhiều hơn coi đó là sự đóng óp của những người anh giúp em xây dựng gia đình.
Bên cạnh gia đình phụ quyền nhỏ, gia đình người Mông còn tồn tại gia đình lớn gồm 3-4 thế hệ gồm 40-50 người mà mọi thành viên đều  thấy rằng trên cơ sở sinh hoạt công bằng ,hợp lý một tập thể như vậy có lợi cho sản xuất và sinh hoạt.

Với hôn nhân mua bán xưa kia thịt rượu, bạc trắng là những vật định giá gả bán và cưới, kéo vợ và cưới... nhưng đó là biểu hiện của hôn nhân mua bán. Sự thành hôn của họ được quyết định bởi sự tương xứng khả năng kinh tế của hai gia đình, niềm tin về tương lai đảm bảo do việc xem chân gà tốt, đi không gặp điềm xấu.

Theo phong tục con cô cậu được lấy nhau và chị dâu lấy em chồng.
Đối với người Mông ông cậu và bà cô có vai trò rất quan trọng.

Cậu “trứ lăng”tham gia dạy bảo cháu thành người, có tư cách,hay làm. Cháu lớn lên  do bố mẹ dượng cậu dạy bảo. Cháu trai có thể trưởng thành con rể tương lai. Cháu gái trước khi đi lấy chồng được cậu dặn dò. Nếu bố mẹ thách cưới nặng, cậu tham gia ý kiến để cháu không bị nợ nần làm khổ về sau. Trong đám cưới cháu gái được nhận quà và cũng là biểu hiện của việc nhận trách nhiệm tiếp tuc giúp đỡ cháu. Chính cậu là người đưa cháu gái về nhà chồng., nói chuyện với bố mẹ chồng về sự làm ăn về sau của cháu.

Cô (Mọ cứ ) có trách nhiệm to lớn trong việc chỉ bảo cháu biết các tập tục cúng bái, ma chay, cưới xin, và cháu thường làm theo sự chỉ bảo của cô. Cháu không nghe lời để cô bực không dự lễ cúng bị coi là hình phạt. Việc sát nhập hay tách họ cũng phải có ý kiến của cô. Người cô có quyền sửa những tục coi là hủ bại. Khi cô gả con cậu tham gia ý kiến, ngược lại cậu gả con cô tham gia ý kiến đảm bảo cho cháu khi về nhà chồng làm ăn tốt.



       
VI. Phong tục tập quán

1). Sinh đẻ

Do xây dựng gia đình sớm, người phụ nữ Mông sớm có con và đó là điều mong ước của họ. Người Mông đẻ ngồi. Việc đỡ đẻ do hàng xóm giúp.

Đẻ con trai sau chôn ở cột chính của nhà
Đẻ con gái sau chôn ở dưới gầm giường

Vừa đẻ ra, đứa bé được tắm rửa ngay. Sản phụ ăn ngày ba bữa, thức ăn là thịt gà, thịt lợn nạc hay trứng nấu hạt tiêu. Đến ngày thứ ba thì làm lễ cúng đặt tên và đeo vòng vía cho con. Tùy từng nơi mà làm lễ này tổ chức to hay nhỏ. Nếu là con trai thì tên này được gọi đến khi có vợ mới đặt tên khác. Nhà có người  ở cũ thường phải “cấm bang” người phụ nữ đi lại hỉ qua cửa phụ và trong một tháng không được đến nhà người khác họ.

Xưa kia khó đẻ người ta thường chỉ cúng vì cho rằng lúc có chửa đã không kiêng kị tốt. Người phụ nữ có chửa phải kiêng không đi xa nhà, không qua suối, không bước qua dây buộc ngựa, không ăn mà dòng họ vẫn kiêng. Nạn hữu sinh vô dưỡng hiếm con xưa kia rất phỏ biến nên đồng bào thường hay làm lễ cầu tự hay thờ  mụ.

Lễ cầu tự (Tủa siào): Người Mông lấy nhau 5-7 năm không có con hoặc con hay ốm đau thường làm lễ cầu tự vào ngày lành tháng tốt. Sáng hôm sau làm lễ vợ chồng và các con đi ra ngoài cách nhà ở 1-2 cây số dựng lều trên đường đi. Trong lều bắc hai ghế ngồi dọc theo hai ben đường . Ở đó, họ khấn cầu các con hoặc mong con khỏe mạnh rồi đi vào bụi rậm ngồi chờ. Khi có người qua đường họ ra đón mời về mổ gà lợn làm lễ cúng. Người qua đường buộc chỉ hay sợi lanh vào chủ nhà hoặc trẻ nhỏ chúc như họ mong muốn. Sau này nếu có con hoặc con khỏe mạnh thì người qua đường được coi là bố mẹ những đứa trẻ được trọng vọng.

Thờ mụ (Đá trung) Tất cả những người phụ nữ đã có con đều thờ mụ. Mụ theo quan niệm của đồng bào có liên quan đến sức khỏe gia đình sản xuất nhưng chủ yếu liên quan tới chăn nuôi và việc chăm sóc trẻ em. Cúng mụ phải mủ lợn, cách cúng giống như cúng ma cửa mà họ vẫn thường làm. Khi cúng xong lấy một quả bầu các cong khoét miệng gáo, lấy lá cây và hàm lợn để ở chỗ kín trong buồng kiêng ba ngày quét nhà.

3.        Hôn nhân

Chuyện hôn nhân gia đình ở dân tộc nào cũng chứa đựng nhiều nét văn hóa khá đặc trưng. Trước đây thanh niên Mông tin rằng :Muốn người nào đó yêu mình thì phải lấy trộm được tóc của người đó đem cuốn với tóc mình. Sau đó bắn tin cho đối tượng,chắc chắn tình yêu sẽ đến. Có người lại tin đót đoạn đuôi rắn bôi vào cành cây búc rúc quẳng vào lối mà cô gái hay đi qua. Cô gái bước qua hay dẫm phải cành cây sẽ mắc phải bùa yêu phải lấy người bỏ bùa. Đó là chuyện xưa nhưng đến bây giờ trong bản làng người Mông người ta vẫn nhăc đến bùa yêu như khát vọng về hạnh phúc.

Tục “cướp vợ”: Mỗi độ xuân về khi cành đào tung hoa,cây ngô trổ mầm,nhửng phiên chợ rôn ràng người mua bán cũng là lúc thanh niên nam nữ người Mông có cơ hội tìm hiểu nhau. Đó chính là tục“kéo vợ”-  Một nét văn hóa riêng độc đáo của người Mông. Khi đôi trai gái đã ưng ý và thề nguyền sẽ đi đến hôn nhân thì họ sẽ về báo cáo với bố mẹ và dòng họ.Nếu mọi chuyện suôn sẻ thì nhà trai sẽ tiến hành mời ông mối đánh tiếng dạm hỏi,rồi tiến tới lễ ăn hỏi và cuối cùng là lễ cưới. Đám cưới của người Mông thường được tổ chức linh đình vào mùa xuân là mùa vạn vật sinh sôi nảy nở mà con người không nằm ngoài quy luật đó của tạo hóa. Người ta rất kiêng làm đám cưới vào những tháng có sấm sét. (mùa hạ)

Trong thực tế có rất nhiều đôi trai gái yêu nhau nhưng lại không được một hoặc cả hai bên cha mẹ đồng ý (chủ yếu là cha mẹ cô gái )khi cha mẹ không đồng ý mà đôi trai gái tự tìm đến sống với nhau thì không những bị coi là bất hiếu mà cuộc hôn nhân đó còn không được cộng đồng chấp nhận.Thế nên tục“kéo vợ”có thể được coi là giải pháp khá hiệu quả cho nhửng đôi trai gái yêu nhau nhưng gặp trở ngại từ phía gia đình. Đôi trai gái đó sẽ nhờ cậy những ông chú bà thím,ông cậu,bạn bè,anh em...làm nội ứng,thống nhất kế hoạch kéo dâu,hợp lí hóa hôn nhân. Mọi chuyện được tính toán bí mật gia đình nhà gái không hề hay biết.Cô gái vẫn thường ngày đi nương lấy củi. Rồi một ngày như đã hẹn...chàng trai xuất hiện.Hai người đang tâm sự thì bạn bè của chàng trai xuất hiện và giúp chàng trai kéo cô gái về nhà mình. Dù biết trước mọi việc nhưng cô gái vẫn cảm thấy bất ngờ,kêu toáng lên. Không những thế cô gái phải giả vờ kêu cứu khóc lóc để người nhà biết đến cứu. Người ta cho rằng người con gái bị kéo mà không khóc lóc thì đó là đồ con gái rẻ rúng và hư hỏng,bị gia đình và làng xóm coi khinh.Khi người nhà gái mang gậy gộc đếncứu cô gái thì các bạn của chàng trai sẽ xông ra đỡ đòn.( Theo luật lệ người Mông là đã đi “kéo vợ”thì nhà trai không được phép đánh lại nhà gái ) để chàng trai mang cô gái về nhà.  
                          
Sau khi gia đình chàng trai mang gà ra làm lễ quét phép cô gái mới được đua vào nhà. Người Mông quan niệm con gái đã bị người ta dùng gà trống làm lễ nhập nhà rồi thì có bỏ về bố mệ đẻ cũng không thể chấp nhận được vì cô ta đã trở thành người của nhà khác rồi.(Chính vì vậy khi biết con gái mình đã bị người ta kéo về làm vợ thì dù có không đồng ý,có ấm ức thì đa phần nhà gái cũng đành đồng ý ).Có trường hợp phải kéo 2,3 lần mới cưới. Cũng như tục cướp vợ trước đây, sau hai hôm nhà trai cho người sang nhà gái báo và hỏi. Sau ba hôm cô gái có thể về nhà mình đến khi ông mối đến hỏi chính thức lại theo ông mối về nhà trai. Theo thủ tục thông thường thì khi đi ăn hỏi hai bên có thể thỏa thuận về khoản lễ cưới nhưng nếu nha trai dung tục“kéo vợ”thì nhà gái sẽ ít thông cảm và thường phạt bằng cách đòi lễ cao hơn bình thường. Khi nhà gái đòi bao nhiêu thì phải trả bấy nhiêu để tránh sự chê cười của làng xóm. Chính vì lệ này mà không phải gia đình nào cũng có thể dung tục“kéo vợ”cho con trai. Những gia đình muốn dùng tục “kéo vợ”thường phải là gia đình khá giả thì mới có thể đáp ứng nhu cầu khi nhà gái phạt. Bởi có không ít gia đình phải mất vài ba năm mới có thể trả hết lệ phạt mà nhà gái đạt ra. 
     
 Tuy nhiên tục này cũng gây ra nhiều phiền phức. Nhiều cô gái phải lấy những người không vừa ý vì người con gái đã qua “nhập môn”.Tuy nhiên với sự giúp đỡ của bạn, của chị em người con gái có thể chống lại và có trường hợp họ tự cứu được mình được người xung quanh khen. Cũng có trường hợp người con gái bị cướp về nhưng quyết không lấy người cướp mình vì “không sợ ma”. Cướp vợ nhà trai phải mất tiền gọi là đền danh dự cho nhà gái.

 Ngày nay cũng như nhiều dân tộc khác, người Mông luôn trọng chế độ hôn nhân một vợ một chồng và quan niệm cái đẹp lứa đôi là khỏe mạnh,đạo đức và chăm chỉ. Vợ chồng người Mông gắn bó với nhau khi đi chợ cũng như đi nương, khi đi thăm họ nội cũng như họ ngoại, luôn có nhau. Trên đường đi thì chồng đi trước vợ theo sau như hình với bóng. Ở những người nhiều vợ điều đó dễ xảy ra mâu thuẫn và nó giải thích tại sao trong chế độ mới tình trạng đa thê mất đi nhanh chóng.

-Đám cưới:

Xưa kia người con trai phải đến tận nhà người con gái nói rằng “mong gia đình để con gái đến giữ nhà cho tôi”.Ba hôm sau gia đình nhà trai mổ gà “xem xương”rồi cho hai ông mối đi hỏi. Ông mối thường mang thao ô đen có khăn buộc giữa đến nhà gái treo ở cửa và hát bài mở cửa. vào đén nhà hai ông mối treo ô ở vách bàn thờ lấy thuốc mời chủ nhà. Nếu gia đình đồng ý để ghế đặt dọc nhà rót hai chén rượu mời ông mối. Nếu không thì đặt ghế ngang nhà.Khi được gia đình đồng ý chủ nhà cho ông mối đem thịt rượu đến làm lễ hỏi chính thức,bàn việc cưới.Trong lễ này đại diện cho nhà trai và nhà nhà gái bỏ tiền ra bàn rồi chia làm 4 phần cho 4 người có mặt ở đó làm tin. Thường chủ nhà đưa ra 4 đồng thì ông mối đưa ra 8 đồng.

-Người Mông có tục làm lễ “buộc dâu”bằng một sợi chỉ vào cổ tay do nhà trai mang đến một cách long trọng trước mặt mọi người trước khi làm lễ cưới.

Đám cưới được tổ chức long trọng vào ngày tốt. Nhà trai phải đem đến nhà gái đầy đủ tiền và đồ thách cưới. Đoàn đón dâu thường 9,13,19 người trong đó có một đôi vợ chồng,2 ông mối những người khiêng đồ, một hay hai phù rể.Anh trai hay cậu dắt tay cô dâu ra cửa trao cho người lớn đón dâu. Vào cửa nhà trai,bố chồng lấy gà ra làm lễ “nhập môn”,nếu trước đó chưa làm, có ông bà là hai vợ chồng từ trong nhà ra cửa đón dâu. Cô dâu phải lướt qua ba cái ghế ở giữa nhà đến chỗ nghỉ của mình. Vợ chồng đi đón dâu phải trao cho nhà trai của hồi môn của cô dâu và nói lại những ý kiến mà nhà gái dăn. Sau ba ngày cô dâu làm lễ lại mặt cùng với chú rể, găp người nhà và anh em họ hàng gần,rồi về ở hẳn nhà chông với một số của hồi môn.

Theo phong tục của người Mông, con dì con dà, con cô con cậu được lấy nhau. Con trai cậu lấy con gái cô được coi là điều tốt. Người cô khi gả bán trước hết phải gả cho con cậu, “nước tốt không để chảy vào ruộng người”.Còn cậu có quyền đòi cô gả con gái cho con trai mình vì “tôi đã để vật quý ở đây thì phải lấy lại nó”.Đối với người Mông ông cậu và bà cô có vai trò rất quan trọng.

Cậu “trứ lăng”tham gia dạy bảo cháu thành người, có tư cách,hay làm. Cháu lớn lên  do bố mẹ dượng cậu dạy bảo. Cháu trai có thể trưởng thành con rể tương lai. Cháu gái trước khi đi lấy chồng được cậu dặn dò. Nếu bố mẹ thách cưới nặng, cậu tham gia ý kiến để cháu không bị nợ nần làm khổ về sau. Trong đám cưới cháu gái được nhận quà và cũng là biểu hiện của việc nhận trách nhiệm tiếp tuc giúp đỡ cháu. Chính cậu là người đưa cháu gái về nhà chồng., nói chuyện với bố mẹ chồng về sự làm ăn về sau của cháu.

Cô (Mọ cứ ) có trách nhiệm to lớn trong việc chỉ bảo cháu biết các tập tục cúng bái, ma chay, cưới xin, và cháu thường làm theo sự chỉ bảo của cô. Cháu không nghe lời để cô bực không dự lễ cúng bị coi là hình phạt. Việc sát nhập hay tách họ cũng phải có ý kiến của cô. Người cô có quyền sửa những tục coi là hủ bại. Khi cô gả con cậu tham gia ý kiến, ngược lại cậu gả con cô tham gia ý kiến đảm bảo cho cháu khi về nhà chồng làm ăn tốt.

Vì con cái và tài sản, tục em chồng lấy chị dâu đã tồn tại lâu dài ở đồng bào người Mông. Trường hợp em chồng đã có vợ thì chị dâu làm lẽ. Không có em chồng thì lấy em họ. Việc em chồng lấy chị dâu cũng như trai lấy gái nhiều tuổi để có người làm đã làm cho tuổi vợ chồng chênh lệch nhau không ít. Do vậy người ta thường hay lấy làm vợ lẽ. Và người con gái trong hoàn cảnh nào đó chỉ muốn làm vợ lẽ để có quan hệ tốt với chồng hơn vì vợ cả chỉ là người làm.Cũng có trường hợp lấy vợ lẽ do vợ cả không có con trai.Người Mông cho rằng ai đã định lấy vợ lẽ thì phải lấy nếu không sẽ bị chết,quan niệm đó đã củng cố thêm chế độ nhiều vợ.

4.     Tang ma :

Tang ma của người Mông có làm ma tươi khi người vừa chết và làm ma khô khi có điều kiện (thường là sau khi chết 13 ngày hoặc sau vài năm tùy vào hoàn cảnh từng gia đình).khi có người qua đời thì gia đình báo cho cả làng biết bằng 3 phát súng chỉ thiên.Ông thầy cúng được mời để đọc bài cúng Au tơ kế nói lên nguồn gốc của người Mông, vừa là lễ thức quan trọng chỉ đường cho người chết về với tổ tiên. Đặc biệt trong đám ma tươi người ta mời người hát bài mở đường (khúa kê), mặc quần áo rồi đưa lên cáng treo trước bàn thờ hoặc để trên ghế dài đặt nằm ngang cửa ra vào. Theo quan niệm tấm ván được ví như lưng ngựa để đưa người chết về với tổ tiên. Ở một số họ tuy xác người chết được để vào quan tài ngay nhưng có thể mở quan tài dễ dàng để xem mặt người chết. Lúc hát mở đường khi đọc đến sự tích gà đẫn đường người chết về với tổ tiên người ta mang một con gà đã chết để nguyên lông moi lòng ra ngoài, hay đôi cánh gà hặc con gà sống đặt trong âu bột ngô đồ cúng với ô giấy và cũng để ở phía đầu người chết. Ở phía đầu người chết còn để rượu bột ngô làm đồ cúng hàng ngày. Ở một số họ phong tục đưa xác ra ngoài trời để rên một sàn nhỏ có hoặc không có maische một thời gian. Tại đó còn phải giết bò cúng và ăn uống xong mới chôn cất.Trường hợp không đưa xác vào quan tài ngay người ta đưa quan tài xuống huyệt trước rồi mới đưa xác xuống sau. Trước khi đậy nắp quan tài áo quần người chết được cất ở nhiều chỗ và cạnh xác được đặt những sợi lanh thái nhỏ trộn cơm. Xưa kia đám ma kéo dài 5-7 ngày ngày nay chỉ còn 2-3 ngày. Chôn cất xong làng xóm thường chơi với gia chủ vài ba buổi tối và chủ nhà cắm cành ở đường. Nếu người chết là nam cắm 9 cành nữ 7 cành để hồn người chết không biết đường về làm hại gia đình. Sáng thứ 3 người ta mang cơm nước ra mả, lấy lá che mả sau đó mang cơm nước ra tiếp hai bữa nữa. Hôm cuối người ta nhặt một hòn đá ở mả về đặt ở gần bếp coi như chỗ cơm của người chết đặt ở đó.

Đám ma khô thường diễn ra trong một ngày một đêm. Người Mông quan niệm nếu không làm ma khô thì người mất chưa được rửa sạch tội lỗi hóa kiếp sẽ không được hòa nhập với tổ tiên. Người ta ra mộ lấy một nắm đất và mời người chết vè dự lễ. đến cổng đặt nắm đất vào cái nia có hình nộm để sẵn và mang vào đặt dưới bàn thờ để tiến hành các nghi lễ do thầy cúng, thầy trống thầy kềnh thầy kèn thực hiện. Người mông không lập bàn thờ riêng và giỗ người chết. Sau lễ ma tươi chỉ làm lễ ma khô là chấm dứt.

Lễ cúng sau khi mai táng12 ngày gọi là Uố sú. Đám này cúng trong một ngày nhưng cũng mổ lợn gà thổi kèn và đánh trống. Những người đến dự chỉ là anh em gần và những người phục vụ hôm trước.

Lễ cúng sau một vài năm gọi là Uô pli. Nếu trước đây trong đám chôn cất đã mổ trâu bò thì đám này chỉ cần mổ lợn .

Người Mông còn có lể Nhìu đáng (ma trâu). Trong một đời người mỗi người đàn ông phải cúng báo hiếu bố mẹ một lần. Người Mông thường nói ‘bố mẹ lấy vợ cho tôi, tôi cho bố mẹ trâu bò’. Vì vậy mà người ta thường làm xong lễ này. Có trường hợp anh em chung nhau lễ này nhưng nhiều khi mỗi người phải làm một lễ riêng. Vật cúng của họ có thể dùng thủ trâu, bò nhưng nhiều họ phải mổ trâu bò. Riêng người Mông xanh trâu bò dùng cho lễ cúng phải khỏe mạnh không đui què lở loét. So với đám chôn cất thì đám ma trâu phức tạp hơn. Tùy từng họ cúng ở trong nhà hay ngài trời, cúng theo số lượng bát và sự sắp xếp bát nhất định, người cúng phải hiểu lai lịch dòng họ. Đám ma trâu làm trong một đêm hai ngày và cũng khá tốn kém.

Trong đám ma người Mông thường dùng khèn trống. Hộ thổi các bài: ăn buổi chiều, lên ngựa, ăn buổi sáng, ăn trưa , nhận gia súc…bày tỏ nỗi luyến tiếc người sống đối với người chết. Những lễ viếng có người thổi kèn riêng được gọi là long trọng. người đến viếng thường mang theo giấy bản, ngô, rượu.Người thân mang cả chăn lanh, lợn. Khi mổ súc vật 4 chân người ta đem sợi lanh buộc từ con vât đến tay người chết.

5.     Tục làm nhà mới:

Với người Mông việc chọn đất làm nhà mới rất được coi trọng. Cách chọn đất giống như của người Dao: người ta đào hố sâu tròn có đường kính khoảng 1 gang tay để vào đó những hạt gạo tượng trưng cho người và gia súc rồi khấn, lấy bát úp miệng hố. Đến sáng hôm sau nếu bát gạo vẫn nguyên một chỗ ở đó có thể làm nhà được.Có nơi việc chọn đất làm nhà lại phụ thuộc vào thầy địa lý.Hướng nhà thường là hướng đông tây, ngọn đòn và cửa chính quay về hướng đông theo quan niệm là để làm ăn tốt. Khi dựng cột, những cột phụ được dựng trước sau đó mới đến cột chính. Làm nhà xong phải mổ lợn cúng cột giữa và ma nhà. Chủ nhà là người đốt lửa đầu tiên.

6.     Cúng bái trong gia đình:

Người Mông quan niệm vạn vật hữu linh: tất cả người và vật chết hồn biến thành ma( đã hay nềnh) ma lành hay ma ác. Con người có 3 hồn ở đỉnh đầu và hai tay. Người ốm do hồn lìa khỏi xác nên rất kiêng xoa đầu trẻ em. Cũng có nơi người ta quan niệm hồn trú ngụ ở bàn tay nên kiêng trẻ em chơi hoa và vỗ tay. Do quan niệm người có hồn nên khi trẻ em sinh ra được 3 ngày người ta đốt lửa ở cửa để gọi hồn trẻ. Người có con trai thờ’ thần ruộng vườn’, người có con gái thờ ‘thần giường’ để bảo vệ con cái.

Ngoài tổ tiên có rất nhiều ma được cúng trong nhà

Xử cá được coi là ma nhà được thờ ở giữa vách gian chính đối diện với chính cửa nhà. Bàn thờ là tờ giấy bản có dán lông gà và người ta thường thấy nó vào 30/12 khi ăn tết. Cúng ma nhà vào dịp tết, ăn cơm mới lúc gia đình có người ốm đau, khi sản xuất và chăn nuôi không tốt, cần trừ tà và cần có sự phù hộ.

Xia mình (ma cửa) gọi theo tiếng Quan Hỏa, cũng là ma được coi là có lien quan đến sức khỏe của con người, bảo vệ tài sản, gia súc. Ma cửa cúng vào dịp tết, khi có người đau ốm, chăn nuôi không tốt. Lễ cúng cần gà hay lợn trong dịp cúng thường thay miếng vải đó ở cửa. Trường hợp mổ lợn phải cúng theo cách của cả họ, nhưng nói chung mổ lợn trong nhà, thịt chỉ ăn một bữa, lúc cúng không nói tiếng dân tộc khác.

Bùa đáng hay bón tù đắng (ma lợn) thờ ở cột chính của nhà, cột tượng trưng cho sự hưng thịnh của gia đình cũng là nơi thờ phụng cha mẹ tổ tiên.ma lợn chỉ có chủ gia đình thờ cúng. Cúng cột chính của nhà theo quan niệm còn để tạ ơn những người xưa kia đã giúp người Mông qua hoạn nạn, để tìm chữ đã mất…Vật cúng là lợn nái đã đẻ và cúng theo cách riêng của họ. Trong người Mông Hoa cúng ‘bùa đáng’ được đặc biệt quan trọng. vì vậy mỗi nhà đều nuôi 1,2 con lợn nái. Sauk hi cúng hàm lợn treo ở cột chính. Mỗi người trong đời mình cúng cột chính 1,2 lần.

Người ta thường khấn, thắp hương, đốt vàng mã cúng Hú sinh (ma bếp), khó trù (ma lò)vào dịp tết hoặc khi đi xa để cầu may. Người ta tin rằng chăn nuôi tốt một phần là do ma bếp phù hộ. Kiêng không gác chân, gõ vào bếp lò, khi lợn chửa không xúc tro bếp ra.

 Ở những gia đình biết nghề thuốc chữa bệnh còn lập bàn thờ Dìu Vàng (được Vương). Những gia đình cí nghề cúng bói còn thờ ma thầy cúng. Người làm nghề cúng bói trong các thôn xóm khá đông trong đó có cả nữ. Thầy cúng có nhiều loại có uy tín trong quần chúng. Mỗi lần cúng phaỉ có gà lợn và thuốc phiện nên có ảnh hưởng đến đời sống rõ rệt.

*Tục cúng ‘ôn chít’(cúng tạ ơn , xin lộc)

Cũng như nhiều dân tộc anh em sống trên dải đất hình chữ S, đồng bào Mông sinh sống ở phía bắc tổ quốc cũng có những tín ngưỡng riêng của mình.một trong những tín ngưỡng đặc sắc và tiêu biểu đó là tục ‘ôn chít’ có nghĩa là cúng tạ ơn xin lộc.

Cúng ôn chit được tổ chức thường xuyên lien tục mỗi năm một lần vào 15/9 âm lịch sau khi đã thu hoạch lúa xong. Nét độc đáo ở đây là trong một dòng họ chỉ tập trung cúng ở một gia đình. Mỗi năm mỗi nhà cúng bắt đầu từ nhà ông trưởng họ rồi cứ thế theo vai vế cho hết lượt rồi quay về ông trưởng họ. Lễ vật cúng tế được chủ nhà tổ chức lễ chuẩn bị sẵn sàng trong dòng họ mổ chung một con trâu bò hay lợn. Các gia đình khác khi đến nhà tổ chức cúng lễ ai cũng phải cầm theo trên tay 3 cây chít đá, 1 mảnh vải dải dỏ nhỏ dài tử 20-30 cm được cuốn 3 vòng quanh 3 cây chit. Nếu gia đình nào khá giả thì có thể mang thêm ít tiền rượu đến góp lễ. cúng ‘ôn chít’được tổ chức vào ban ngày từ 8-9 h sáng ở ngoài trời hay sau nhà.

Trong khi cúng mọi người trong dòng họ đứng gọn vào 1 chỗ theo từng gia đình. Ông trưởng họ tay cầm 1 đầu sợi chỉ lanh để thầy cúng cầm cuộn chỉ vừa cúng vừa đi vòng theo chiều kim đồng hồ, cuốn chung quanh tất cả mọi người. cứ như vậy cho hết bài cúng thầy cúng lại cúng lại và di ngược chiều kim đồng hồ để tháo những vòng chỉ cuộn quanh mọi người ra. Cứ như vậy đủ 3 vòng thì thầy cúng bắt đầu cầm bó chit của các gia đình mang đến bó lại bằng sợi vải đỏ, cắm 9 nén hương lên bó chit và thầy cúng vác bó chit lên vai,lấy sợi chỉ đó vừa cúng vừa quấn quanh bó chit đủ 3 vòng rồi lại tháo ra.

Khi thầy cúng đã cúng xong ở ngoài trời thì mời các gia đìnhvào ngồi ở giữa nhà để tạ ơn thầy. Thầy cúng cầm bát nước trên tay hớp một ngụm để xúc miệng rồi nhổ ra, hớp ngụm thứ hai thầy lẩm bẩm khấn, xong phun lên nóc nhà. Lúc này lễ đã xong mọi người nghỉ chuẩn bị cơm tập trung ăn uống chúc tụng nhau vui vẻ.

Không mang nặng màu sắc mê tín như nhiều nghi lễ cúng tế của các dân tộc khác, tục cúng ôn chit thể hiện khát vọng về cuộc sống ấm no. nghi lễ này nhằm tạ ơn trời đất thánh thần đã phù trì đem lại cho họ mưa thuận gió hòa, vụ mùa bội thu, thóc gạo đầy nhà vào vụ gặt năm tới. Cần cho sự bình an của các gia đình tránh được những tai ương ảnh hưởng đến mọi thành viên trong dòng họ và cả cộng đồng.









Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét