DÂN TỘC VIỆT
I . KHÁI QUÁT CHUNG
Tên gọi khác : Kinh
Nhóm ngôn ngữ :Việt - Mường
Dân số : khoảng 65.000.000 người.
Cư trú : là dân tộc đa số , cư trú
hầu khắp các tỉnh từ Bắc đến Nam
và trên các đảo ven thềm lục địa của nước ta . Tập trung hơn cả là trên các
châu thổ , các thành phố và thị trấn .
Đặc điểm kinh tế : Người Kinh làm
ruộng nước. Trong nghề trồng lúa nước, người Kinh có truyền thống đắp đê, đào
mương. Nghề làm vườn, trồng dâu nuôi tằm, nghề nuôi gia súc và gia cầm, đánh cá
sông và cá biển đều phát triển. Nghề gốm có từ rất sớm.
Người Kinh có tập quán ăn trầu cau,
hút thuốc lào, thuốc lá, uống nước chè, nước vối. Ngoài cơm tẻ, cơm nếp, còn có
cháo, xôi. Mắm tôm, trứng vịt lộn là món ăn độc đáo của người Kinh.
Tổ chức cộng đồng : làng
xóm
Hôn nhân gia đình : Hôn nhân theo chế
độ một vợ một chồng. Gia đình theo chế độ phụ hệ
Người Việt có lịch sử lâu đời và là một
trong những cư dân có mặt sớm nhất trên đất nước này . Ngay từ thiên kỉ II TCN
, tổ tiên người Việt đã đi vào thời đại đồng
và đã là xã hội có giai cấp , có nhà nước .
II. KINH TẾ TRUYỀN TRỐNG
- Văn Lang là nhà nước đầu tiên , kinh đô đặt
trên đất Bạch Hạc ( Vĩnh Phú ) ngày nay . Từ rất sớm , trước khi thành lập nước
Văn Lang , tổ tiên người Việt đã biết nghề nông và nghề đánh cá . Những cư dân ở vùng núi thì làm nương rẫy .
Còn đại bộ phận sống ở trung du và đồng bằng thì làm ruộng nước . Trâu bò thì
dùng làm sức kéo . Dụng cụ sản xuất từ đồ đá chuyển sang đồ đồng rồi đồ sắt như
lưỡi cuốc , cày …Từ đó nghề nông có điều kiện phát triển ngày một mạnh mẽ . Đi
đôi với cây lúa nước là công tác thủy lợi được đặc biệt chú ý : đê điều , mương
phai sớm được sử dụng cùng với các phương tiện khác như : gầu , guồng , xe
nước…
- Nghề khơi , nghề lộng cũng đã có từ rất sớm
và có một vị trí không kém phần quan trọng trong kinh tế đời sống của nhân dân
- Nghề chăn nuôi trâu bò và gia súc nhỏ cũng
có từ lâu ,mặc dù nó chưa bao giờ có vị trí ngang hàng với trồng trọt ,nhưng
cũng chưa bao giờ váng mặt .
- Các nghề thủ công sớm phát triển , đặc
biệt là nghề gốm .Tổ tiên người Việt đã biết dùng bàn xoay từ lâu và đã làm ra
những sản phẩm không chỉ tốt mà còn đẹp . Bên cạnh nghề gốm còn phải kể đến
nghề đúc đồng . Người Việt xưa sớm đã biết khai khoáng và tạo ra nền văn hóa
đồng thau vô cùng rực rỡ , tiêu biểu như trống đồng Đông Sơn . Các nghề phụ gia
đình tuy với quy mô nhỏ nhưng không kém phần phong phú và phát triển .
III . VĂN HÓA VẬT CHẤT
1 , Nhà cửa
A , KHUÔN VIÊN
Đơn vị
nhỏ nhất để cấu thành làng xóm là các khuôn viên của các hộ gia đình . Qui mô
của các khuôn viên rất khác nhau : các hộ gốc trong làng hoặc các hộ khá giả
thường có khuôn viên tương đối rộng . Còn những hộ nghèo hoặc mới nhập cư thì
khuôn viên khá nhỏ hẹp . Về quy mô có khác nhau , nhưng cách bố trí nhà cửa,
vườn tược … trong khuôn viên thì hầu như người ta đều theo một khuôn mẫu chung
: bao lấy khuôn viên là một vòng rào ,vật liệu cũng như phương pháp xây dựng
tùy thuộc vào khả năng kinh tế và sở thích của từng chủ nhân của khuôn viên đó
.
Từ
trong khuôn viên thông ra ngoài thường phải qua cổng tiền hoặc cổng hậu. Cổng
tiền bao giờ cũng phải mở lệch về một bên , không được nhìn thẳng vào gian
chính giữa nhà . Kiểu cách và độ bền vững của cổng cũng phụ thuộc vào túi tiền
và sở thích của chủ nhân . Cổng thường được
đặt ở đầu ngõ , xưa nhiều nhà cũng có cổng mẫn . Những người khá giả xây
cổng bằng gạch hoặc gỗ . Còn những ngươi nghèo thì làm cổng trống hay chỉ là
một bộ khung cột bằng tre , cánh cổng là một tấm liếp tre đơn đan sơ sài .
Cách
bố trí nhà cửa trong khuôn viên giữa người giàu và người nghèo cũng không khác
nhau là mấy : giữa khu đất là nhà ở chính và các nhà phụ thuộc ( nhà bếp , nhà
kho , chuồng gia súc … ) vườn , ao . Nhiều hộ ở
góc vườn sau nhà có nhiều miếu thổ thần hoặc trước nhà có cây hương .
Tùy theo hình thức kết hợp các nhà trong khuôn viên mà tạo thành các tổ
hợp nhà với tên gọi khác nhau :
- Tổ nhà hình chữ môn : thường là của
những nhà giàu có . Một nhà chính , 2 nhà phụ 2 bên ôm lấy cái sân ở giữa .
- Tổ hợp nhà chữ cổng : tổ hợp này
nhà giữa nối hai nhà trước và sau được gọi là “ ống muống ”
- Tổ hợp nhà chữ nhị và chữ tam : gồm
2 nhà hoặc 3 nhà xếp song hành với nhau
- Tổ hợp nhà hình thước thợ : một
trong những tổ hợp rất phổ biến vì cách bố trí nhà này rất hợp lí , nhất là đối
với gia đình ít người có mặt ở nhà thường xuyên . Hằng ngày mọi người đi lao
động chỉ để lại một người già hay trẻ nhỏ trông nhà và làm các công việc vặt ,
nếu người này ở nhà dứơi thì vẫn quan sát được nhà trên , vườn tược và ngược
lại .
Miền Nam :
Ở miền Nam có thêm một số tổ hợp khác hoặc
cũng giống như miền Bắc nhưng tên gọi khác :
- Tổ hợp nhà chữ đinh : nhà trên và
nhà dưới được kết hợp với nhau thành chữ đinh . Nhà sau đấu vào chính giữa của
nhà trước , đòn dông của nó vuôn góc với đòn dông của nhà trước . Nhà sau được
gọi là chuôi vồ . Còn nhà chữ đinh ở miền , chuôi vồ không đấu vào gian chính
giữa của nhà trước mà lệch sàn một bên .
- Tổ hợp nhà nối đọi ( xếp đọi , sắp
đọi hay sóc đọi ) : tổ hợp này chỉ khác về tên gọi còn cách bố trí 2 nhà giống
như nhà chữ nhị ở miền Bắc . Ở miền Nam người ta kiêng không làm tổ hợp
nhà chữ tam . Nếu làm thì phải làm thêm một nhà giả và gọi là sóc đọi
- Tổ hợp nhà đút đít : 2 nhà chính và
phụ được làm thẳng hàng nhưng nhà phụ buộc phải thấp hơn nhà chính . Tổ hợp này
rất phổ biến ở vùng đông – bắc Bắc Bộ .- Tổ hợp nhà bát dần ( tám đóng tám
quánh ) . tổ hơp này thường của những người giàu có . Nhà cửa với quy mô lớn và
được gia công rất công phu .
Một số biến dạng của các tổ hợp trên
:
- Tổ hợp nhà sóc đọi có nhà sau dài
hơn nhà trước : nhà sau dài hơn nhà trước có cửa nhìn ra sân và nhìn được qua
đầu hồi nhà trước .
- Tổ hợp nhà nối đọi có sân tương (
sân nước trong nhà ) : nhà phụ tách khỏi nhà chính khoảng 2 m . Lối đi nối giữa
2 nhà có mái che . Phần còn lại để lộ thiên là nơi có bể nước hoặc đặt các lu
đựng nước .
- Tổ hợp nhà chữ đinh có sân tương (
sân trong ) : nhà sau cũng được tách khỏi nhà trước 2- 3 m tạo thành cái sân
nhỏ , chức năng của sân này giống như sân của nhà nối đọi có sân tương .
NHẬN XÉT CHUNG :
1 . Vât liệu xây dựng
Bộ khung nhà của cả 3 miền Bắc , Trung
, Nam Bộ chủ yếu là thảo mộc và kết hợp với ít đất đá …Gỗ để làm nhà của các cư
dân miền Bắc và miền Trung thường là gỗ tốt . Chỉ có những người nghèo mới làm
nhà bằng tre hoặc gỗ tạp . Trước cách mạng , nhà gạch ngói rất ít , chủ yếu vẫn
là nhà gỗ . Gần đây gỗ tốt ngày càng hiếm nên vật liệu cũng phải dổi mới ,
người ta dùng nhều gạch , đá , sắt thép và xi măng thay gỗ . Do có sự thay đổi
về vật liệi xây dựng mà các công thức cổ truyền kèo – cột – xà cũng thay đổi
theo và tường chịu lưc thay đổi cho cột chịu lực .
Vật lịệu làm tường vách : ở miền Bắc
những cư dân sống ờ ven biển hằng năm thường bị ngập lụt nên nhà được che bằng
vách ( nứa hay tre ) rất phổ biến . Những người khá giả thay vách bằng ván mỏng
( đố lụa ) . Loại vách và đố này rất phù hợp với vùng lũ lụt vì khi có lũ người
ta tháo hết vách ( hoặc đố ) để nước chaỷ qua nhà dễ dàng không làm nhà bị đổ
hoặc trôi . Nước rút người ta lại dựng vách như cũ không khó nhăn gì .
Còn ở những nơi cao ráo , nhất là vùng
đồi gò , tường vách đa dạng hơn nhiều : xây bằng gạch , đắp bằng đất , trình ,
đất kết hợp với rơm dạ vắt vào xương tre…tất nhiên không loại trừ vách nứa .
Ven vùng biển người ta còn xây tường
bằng vỏ sò . Những nơi có nghềề gốm người ta tận dụng những phế phẩm gốm để xây
tường . Ở miền Trung Và miền Nam
, vách còn đươc làm bằng lá dừa hoặc lá dừa nước .
Vật liệu lợp : nhà miền Băc và miền
Trung , mái lợp bằng lá gồi và rở rạ là chủ yếu . Nhưng cây lá gồi ngày càng
hiếm nên rơm rạ , cỏ tranh , cỏ lác …trở nên phổ biến hơn . Nay có thêm các
loại ngói , nhưng ngoài ngói tôn thì lá dừa vẫn còn là vật liệu chính .
Về kết cấu bộ khung nhà : từ Bắc đến Nam bộ
khung nhà người Việt đều được hình thành trên cơ sở các vì kèo . Mỗi bộ khung
nhà , ít nhất cũng không thể dưới 2 vì kèo . Bộ khung nhà dựa trên công thức kèo – cột –
xà và nguyên lí cột chị lực .nhà miền Bắc có nhiều vì kèo phức tạp hơn nhà miền
Trung và miền Nam
. Ngoài dáng kèo phổ biến ở cả ba miền vì kèo 3 cột còn có nhữngdạng đặc trưng
cho 3 miền như vì kèo miền Bắc và miền Trung . Mặc dù có sự phânhóa như vậy ,
nhưng cái gốc vẫn là vì kèo nhà miền Bắc .
Về loại hình và các dạng nhà khác
nhau :
nhà nông thôn người Việt có 2 loại hình chủ yếu là nhà sàn và nhà đất . Nhà sàn
là loại hình cổ xưa dấn được thay thế bằng nhà đất . Còn các dạng nhà thì rất
phong phú từ 1 nhà đến 1 tổ hợp nhà . với nhà miền Bắc , các kiểu vì kèo có tên
gọi riêng nhưng ở miền Trung và ở miền Nam lại không có tên gọi riền mà
goi theo tên các dạng nhà .
Về tổ chức mặt bằng sinh hoạt , mặt bằng sinh hoạt của
miền Trung , Bắc Nam
có sự khác nhau , nhất là giữa nhà miền Bắc và Trung . Sự khác biệt này đựoc
thể hiện rõ rang nhất ở dạng nhà 3 gian 2 chái . Với nhà miền Bắc , 3 gian giữa
thường để thông nhau . Gian chính giữa quan trọng nhất là nơi đặt bàn thờ tổ
tiên , nơi dành cho ông chu gia đình và cũng là nơi tiếp khách . 2 gian bên có
giường phản dnàh cho khách nam và nam giói ở trong nhà . Còn 2 chái dành cho nữ
giới đồng thời còn là kho .
Nhà miền Trung và miền Nam
gian chính giữa có thể có bàn thờ tổ tiên nhưng thường là ở 2 gian bên . 2 gian
bên của 2 gian giữa có vách ngăn làm đôi theo chiều dọc nhà .Phần trước có bàn
ghế tiếp khách , phần sau là giườngcủa chủ gia đình , con trai và khách nam …
Các chức năng của ngôi nhà: các chức năng chủ yếu
của ngôi nhà thì hấu như cả ba miền đều giống nmhau :
- Dành cho sinh hoạt của mọi thành
viên trong gia đình
- Sinh hoạt tôn giáo và tín ngưỡng
- Nơi giao tiếp
- Học tập
- Sinh đẻ
- Làm các nghề thủ công gia đình
- Chứa đựng lương thực
- Để nông cụ va các đồ nghề khác
- Chế biến thức ăn cho người và gia
súc
-Chăn nuôi gia súc….
Những chức năng này cũng có sự
chuuyển dịch từ 1 nhà đến 1 tổ hợp nhà .
Khuôn viên : khuôn viên của mỗi hộ đều
có nhà cửa , chuồng trại chăn nuôi , vườn tược , nhiều hộ còn có ao …các cấu tử
này được tổ chức sắp xếp theo nguyên tắc lợi dụng triệt để các nguồn lợi sẵn có
của thiên nhiên , mà trong đó ao và vườn
là đối tượng khai thác hàng đầu . Mọi sinh vật sống tring không gian đó đều
được xem như một quần xá sinh học . Đó là nhìn khuôn viên dưối góc độ sinh thái
, còn nếu nhìn dưới góc độ kinh tế thi nó chính là mô hình kinh tế phong kiến
tiểu nông tự cung tự cấp hoàn thiện nhất .
Ngôi nhà với tính chất và xã hội của chủ nhân . Ngôi nhà của nông thôn
người Việt là tổ ấm của các gia đình nhỏ . Mỗi gia đình tong đó thường có 2 đến
3 thế hệ chung sống với nhau . Đến nay những gia đình có 3 thế hệ cùng chung
sống dưới môt mái nhà cũng đã ít dần , tay vào đó là những gia đình hạt nhân
tức là chỉ có vợ chông và con cái của họ .
Nhìn vào nhưng phong tục tập quán hay
là những lối sống trong nhà , nhà cưa không chỉ phản ánh tính chất gia đình mà
còn cho thấy hoàn cảnh kinh tế của chủ nhân .
Tôn giáo tín ngưỡng liên quan đến nhà
cửa . Nhà
cửa cũng như mồ mả , người nông dân Việt quan niệm không chỉ có ảnh hưởng trực
tiếp mà còn có ảnh hưởng lâu dài đến tính mệnh của các thành viên trong nhà ,
do vậy rất cẩn trọng trong việc xây dựng nhà cửa : từ khâu chọn đất , chon
hướng cho đến khi ngôi nhà được hoàn tất
B , ĐẶC ĐIỂM NHÀ
1 . Nhà miền
Bắc
Nhà ở trung du , đồng bằng và ven biển .
Nhà đất là loại hình nhà phổ biển và chủ
yếu trong nông thôn miền Bắc . Nhà sàn cũng có nhưng rất ít , ở một vài nơi ven
trung du giáp miền núi phía Bắc và ven biến Đông – Bắc Bộ hay ven một số đảo .
Nhà sàn chỉ khac nhà đất đôi chút về cách bố chí trên mặt bằng sinh hoạt , còn
bộ khung nhà hầu như không có gì khác
nhà đất chỉ trừ các cột dài hơn .
Về nhà đất thì tính thống nhất rất cao , nếu như có sự khác biệt nào đó thì chỉ là một số chi tiết mang
dấu ấn của các tiẻu vùng .
Với nhà ở trung du , ngoài nhà sàn còn nhà đất không khác gì nhà ở đồng
bằng . Nhà ở trung du thường có quy mô to lớn vì dễ kiếm gỗ hơn đồng bằng .
Nhà ở vùng Đông – Bắc phần lớn tường
được làm bằng đất và bộ khung với các vì kèo đơn giản . Ở vùng ven biển Đông –
Bắc còn có nhà sàn ở trên ,mặt nước của cư dân đánh cá , còn nhà ven biển vùng
đồng bằng thường thấp , mái lợp dày , phủ nóc rất nặng để chống bão . Nhà trong
vùng đồng bằng , nhất là ở vùng trũng , nền nhà được tôn ao để tránh ngập nước
về mùa mưa lũ .
Kết cấu bộ
khung nhà :
Bộ khung của một ngôi nhà dù đơn giản
hay phức tạp cũng đều hình thành bởi sự
liên kết các vì kèo . Bộ khung của ngôi nhà không chỉ là bộ phận trọng yếu của
ngôi nhà mà ở nó còn cho chúng ta thấy được nhiều mặt khác : quy cách kĩ thuật
, phương pháp sử lí , vật liệu xây dựng , sở thích thẩm mĩ của mỗi chủ nhân .
Có nhiều kiểu vì kèo khác nhau , nhưng
dù là kiểu vì nào cũng xuất phát từ một số cấu kiên cơ bản : kèo , cột , xà .
• Vì
kèo lều 1 trái
Có thể coi đây là kiểu vì kèo đơn
giản nhất mà cũng là cổ nhất . Bộ khung lều có một cột , gác trên đầu cột là
một thanh ngang sau này là đòn dòng
của ngôi nhà . 2 hay 3 , 4 kèo ,
một đầu gác trên thanh ngang , còn một đầu chống trên mặt đất hoặc gác trên
thanh ngang đặt trên đầu 2 cột ngắn . Gác trên các kèo là những cây đòn tay để
buộc lá lợp
• Vì
kèo một mái cổ đinh , một mái cơ động
Kiểu lều này có 2 mái , 1 mái cố định
, 1 mái cơ động . Bộ khung kều gồm 2 vì kèo . Mỗi vì kèo chỉ có một kèo , một
cột cái và một cột con . 2 vì kèo này được liên kết với nhau qua một thanh
ngang – đòn giông – gác trên đầu 2 cột cái và một thanh ngang gác trên đầu 2
cột con . Kèo được làm bằng tre hoặc hóp để nguyên cây , đoạn kèo gác trên đòn
giông được nướng vào lửa rồi vặn cho dẻo để có thể nâng lên , hạ xuống mà không
bị gãy . Mái trước có thể nâng lên hoặc hạ xuống theo ý muốn của chủ nhân nhờ một cọc chống gọi là cọc
thân . Cọc thênh là một đoạn tre , vấu được giữ lại để làm nấc .
• Vì
kèo 3 cột
Đây cũng là vì kèo của lều nhưng ơ
mức phát triển cao hơn . Nay thường thấy ở những nhà phụ thuộc như : nhà bếp ,
chuồng trâu , bò …
Mỗi vì kèo có 3 cột với một bộ kèo
đơn hoặc kép ( 2 kèo song song kẹp lấy đầu cột )
• Vì
quá giang kèo cầu
Một biên dạng của vì kèo 3 cột : cột
giữa không còn nguyên vẹn mà chỉ còn một đoạn ngắn đầu trống và chỏm kèo , chân
đứng trên lưng quá giang .Kiểu vì kèo này thường thấy ở quán , điếm canh và các
nhà phu thuộc
• Vì kèo cầu - cánh ác
Đây là một biến dạng của vì quá giang
– kèo cầu . Trụ giữa không còn dái suốt lên tận chỏm kèo mà bị chặn lại bởi một
thanh ngang bên dưới chỏm kèo . Thanh ngang có tên là cánh ác .
· Vì kèo suốt – quá giang
Đây là một biến dạngcủa vì kèo – cánh
ác : cột giữa hoàn toàn biến mất
· Vì kèo suốt – giá chiêng
Với kiểu vì kèo này người ta có thể nghĩ rằng đó là một số vì kèo 2 cột lồng
vào nhau . Vì kèo này có thể coi là kiểu vì kèo mẫu mực nhất trong phả hệ kèo
của nhà dân gian miền Bắc . Một vì kèo có một bộ kèo đơn hoặc kép với 4 hoặc 6
cột . Nếu vì kèo 4 cột thì có 2 cột cái ( ở trong ) và 2 cột con ( ở ngoài )
nếu là vì có 6 cột thì thêm 2 cột hiên hay còn gọi là cột hành ( ngoài cùng )
kèo được giáp vào đầu các cột . Cột lại được liên kết với nhau bằng hệ thống xà
ngang và xà dọc . Câu lấy 2 đầu cột cái là một thanh ngang gọi là câu đầu .
Đứng trên lưng câu đầu là 2 trụ ngắn , chân trụ có một miếng ván kê goi là cái
đấu hay đấu trụ . Đầu 2 trụ này lại được liên kết vối nhau bởi một thanh ngang
gọi là con cung hay cọn lợn . Cái khung tạo bởi 2 trụ và thanh ngang này gọi là giá chiêng .
Đàu cột con được liên kết với cột cái
bằng một cái xà ngắn gọi là thuận hay xànách . Nối hai cột cái với nhau ở ngang
tầm với thuận là dầm long hay xà lòng . Còn các vì kèo được liên kết bằng hệ
thống xà dọc .
Những biến dạng gần của loai vì kèo
này chỉ là bớt đi một số cột trong mỗi vì kèo cho lòng nhà thêm thoáng
• Vì
kèo – kẻ hay trên kẻ - dưới bẩy :
Nếu là vì sau hàng cột thì
khoảng 1/3 cái kèo được thay bằng cái kẻ
. Đoạn kèo ở ngoài hiên được thay bằng kẻ thì gọi là kẻ hiên .
• Vì
trước kẻ - sau bảy :
Cũng là vì kèo – kẻ nhưng cái kẻ hiên
ở phía sau được thay bằng cái bảy
• Vì
kèo chuyền – giá chiêng
Kiểu vì này , kèo hoàn toàn được thay
thế bằng 3 cái kẻ ( nếu là vì 6 cột ) , trên cùng người ta vẫn giữ lại cái giá
chiêng .
• Vì
chồng rường – giá chiêng
Kiểu vì này không còn kèo hoặc kẻ mà
các đoạn kèo hay kẻ được thay bằng các con chầm , cái giá chiêng còn được giữ
lại . Hoặc người ta còn kết hợp chồng rường – giá chiêng với kẻ và bảy .
• Vì
kèo chái
Một loại vì kèo đặc biệt chỉ có ở các
nhà có trái .Vì kèo này gồm 3 đôi kèo : kèo xó , kèo ngồi và kèo tóp .
Các kiểu vì kèo vừa đựoc giới thiệu chủ
yếu là ở trug du và ở đồng bằng Bắc Bộ . Còn bộ khung của nhà vùngThanh – Nghề
đã có nhiều thay đổi với các kiểu vì kèo ở các địa phương khác nhau chuyển dần
từ Bắc vào Trung
· Vì kèo Vinh
· Vì kèo Hương Khê
· Vì kèo Tĩnh Gia
· Vì kèo Thanh Khê thượng
Cách bố trí trên mặt bằng sinh hoạt
2 Nhà miền
Trung
Kết cấu bộ
khung nhà
Bộ khung nhà miền Trung thường được làm bằng gỗ tốt và có quy định trong
việc dùng gỗ vào các bộ phận của nhà khá
chăt chẽ . Gỗ chua và gỗ vu là 2 loại được ưa chuộng . Dù nhà to hay nhỏ nngười
ta đều cố gắng làm như vậy . Đến nay hiếm gỗ nên quy định đó không còn thực
hiện nữa . Gỗ lim tuy rất tốt được cư dân mien Bắc coi trọng nhưng ở miền Trung
người ta không dùng làm nhà vì cho rằng gỗ lim có chất độc .
Các kiểu vì kèo (Người miền Trung gọi là vầy )
· Vì kèo nhà rường
· Vì kèo nhà rội
· Vì kèo nhà chữ đinh
· Vì kèo nhà trước rội sau
rường
· Vì kèo nhà trên rường dưới
rội
· Vì kèo nhà băng hay nhà
khuông cửi
· Vì kèo nhà cặp
· Vì kèo nhà chữ đinh ( của người
nguồn )
Mặt bằng
sinh hoạt
* Nhà ở Võ Ninh , huyện Quảng Ninh Quảng Bình .Nhà rường 2 gian 2 chái .
Trái bên trái giáp cửa sổ phía trước có 1 phản gỗ , lùi về phía sau , một
giường cá nhân giành cho con trai .
Gian thứ hai có một bộ bàn ghế để tiếp khách . Sau bộ bàn ghế là một tủ
búyp phê. Giáp vách hậu là một hòm gian
Gian thứ ba có một chõng tre và giường của chủ nhà . Gian này có một
đoạn vách ngăn từ hàng cột thứ tư đến hàng cột thứ năm làm thành một buồng nhỏ
ở gian hồi bên phải .
Gian hồi bên phải có cửa thông với nhà
bếp . Trong nhà bếp có một chõng tre và
bếp .
* Nhà ở thôn An Xá , xã Lôc Thủy ,
huỵện Lệ Thủy Quản Bình . Nhà rường một gian 2 chái , xung quanh xây tường gạch
. Mặt trước nhà cũng có cửa lá như nhà ở trên . Đó là những tấm liếp làm bằng
lá cỏ dùng làm cánh cửa , có thể nâng lên hạ xuống được .
Chái bên trái có một bộ phận gỗ dành
cho khách , một bàn học sinh và một giường của con trai.
Gian giữa có bàn ghế tiếp khách và 2 giường
, 1 của chủ nhà và 1 của con trai Chái
bên phải có bàn ăn , 1 giường cá nhân và 1 buồng nhỏ dành cho vợ chủ nhà . Chái
này có cửa thông với nhà bếp .
* Nhà người nguồn ở thôn Tân Lí , xã
Minh Hóa , huyện Tuyên Hóa , Quảng Bình
Nhà làm theo kiểu nhà cặp , 3 gian 2
chái với vì kèo 4 hàng cột . Có gác xép đặt trên trếng của 3 gian giữa . Cửa sổ
và cửa ra vào đều là cửa lùa . Mặt bằng sinh hoạt được chia làm 2 phần theo
chiều ngang , phân biệt nhà trong và nhà ngoài , nhà ngoài dành cho sinh hoạt
của nam giới , còn nhà trong đặt bếp dành cho nữ giới .
Bên ngoài vách của gian nhà hồi , bên
phải có một cái sạp để nước gọi là chạn
3 .Nhà ở
miền Nam
Trung Bộ
Nhà ở miền Nam Trung Bộ có những nét khác với nhà ở Bình Trị Thiên và
gần với nhà ở vùng đồng bằng ở sông Cửu
Long
Các kiểu vì kèo
· Vì kèo nhà con sẻ ( nhà
còi )
· Vì kèo nhà cột cái
· Vì kèo nhà cặp ( nhà giàn
mướp )
· Vì kèo nhà lồng cu ( nhà
chày cối )
· Vì kèo nhà lá mái
Mặt bằng sinh hoạt :
* Nhà thôn Dương Nỗ Đông , xã Phú
Dương , huyện Hương Phú , Thừa Thiên Huế . Bộ khung của nhà này giống như nhà ở
Quảng Bình nhưng đựơc chạm trổ rất công phu .
Một tổ hợp hai nhà , nhà chính ba gian hai chái . Bộ khung theo kiểu nhà
rường có hiên rộng ở mặt trước . Xung quanh nhà tường xây bằng gạch . Nhà phụ
ghép vào đầu hồi bên phải của nhà chính
.
Nhà chính : chái bên trái không có hiên được ngăn thành hai ô , ô phía
trong được dùng làm kho , ô bên ngoài để chum vại và các thứ linh tinh khác .
Gian thứ nhất , phía trước có bàn ghế để tiếp khách , một bộ bàn ghế nhưa dành
cho khách . Còn phía sau là một ô nhỏ trong có giường dành cho con trai và một
cái bàn nhỏ .
Gian thứ hai ( gian chính giữa ) phía trước cũng có một bộ bàn ghế tiếp
khách Về phía sau cũng được ngăn thành
một ô nhỏ bên trong có buýp phê và hai bàn thờ.
Gian thứ ba , về phía trước có một giường đôi của con trai , ở phía sau
là một bộ bàn ghế ngựa dành cho chủ nhà và một tủ lớn .
Chái bên phải cũng được ngăn thành hai ô , ô bên ngoài đặt giường con
dâu , ở bên trong dùng làm kho . Về phía trước nhà là một bể nước khá lớn .
Nhà phụ được chia làm 2 khu vực , một ở
phía trước dành cho sinh hoạt của các con gái . Nơi đây có hai giường và một bộ
phản gỗ để các cô gái ngồi làm nón Bàn ăn cũng được đặt ở khu vực này . Còn
phần phía sau chia thành 2 ngăn , ngăn phía trước có chạn bát , bếp , cạnh bếp
là bàn thờ thổ công . Ngăn sau đặt cối xay . Giáp đầu hồi là chuồng lợn và đặt
bếp nấu cám lợn
* Nhà ở xã Diên An , huyện Diên Khánh , tỉnh Khánh Hòa . Ở đây phổ biến
là một tổ hợp hai nhà : một nhà chính và một nhà phụ . Sự kết hợp 2 nhà này chỉ
khác nhau ở vị trí nhà phụ bên cạnh nhà chính ( hoặc bên phải hoặc bên trái ) .
4 .Nhà miền Nam
Nhà nông thôn miền Nam
phổ biến vẫn là nhà đất , nhà sàn chỉ có ở vùng ngập nước định kì như Đồng Tháp , Kiên Giang và Minh Hải . Nói
chung nhà nông thôn miền Nam
khá đơn giản , người ta sử dung những vật lieu sẵn có tại chỗ, rẻ tiền , ít gia
công , không đòi hỏi người thợ phải có tay nghề cao .
Cửa giả , tường vách rất sơ sài , có nhà hầu như không có vách cửa .
Ngoài nhà cột kê cũng không thiếu nhà cộ chon ( cột cặm ) . Về kết cấu bộ khung
nhà và cách bố trí trên mặt bằng sinh hoạt dù là nhà miền Đông hay là nhà miền
Tây , nhà đất hay nhà sàn cũng ít có sự khác nhau
Các kiểu vì kèo
· Vì kèo nhà nọc ngựa ( nhà
trỏng giỏi )
· Vì kèo nhà đâm trính ( nhà
bát trụ , nhà chày cối )
Mặt bằng sinh hoạt
Nhà đất
A ,Nhà có chái
Nhà có 1 hoặc 2 chái ở đầu hồi . Nhà chính ở số gian thường lẻ . Phổ
biến là nhà 3 gian 1 hoặc 2 chái . Gian giữa có thể lớn hơn 2 gian 2 bên
B , Nhà nối đọi ( xếp đọi , sắp đọi ,
sóc đọi )
Nhà trên thường 3 gian , nhà dưới cùng
chiều dài với nhà trên , nhưng chiều ngang hẹp hơn
C , Nhà chữ đinh
Như nhà nối đọi nhưng nhà
dưới nằm ngang nhưng quay đầu hồi ra phía trước và có lối vào riêng cùng hướng
ra phía trước như nhà trên . Loại này rất phổ biến ở miền Nam Bộ ( kiểu này
cũng rất phổ biến từ Quảng Ngãi trở vào
)
D , Nhà bát dần ( 8 đóng 8 quyết )
Loại này là loại nhà hoàn chỉnh về kết
cấu , gia công kĩ lưỡng , quy mô lớn . Mặt bằng sinh hoạt như nhà 3 hoặc 5 gian
2 chái .
Nhà sàn
Nhà sàn vẫn là ngôi nhà 3 gian quen
thuộc nhưng đằng trước có mái riêng gọi là thảo bạt . Loại nhà này phổ biến ở
Kiên Giang . Nhà ở ven sông Rạch nhìn ra đường phía trước .
2 , Trang
phục
Khái quát chung : Về ăn mặc , phụ nữ cắt tóc ngắn hoặc để tóc
dài búi sau gáy hay vấn quanh đầu , bên ngoài đội khăn . Các loại nón , có nón
thúng quai thao là kiểu nón đẹp nhất . Đi chân đất là chủ yếu , guốc dép chỉ
dùng khi có hội hè , đình đám hoặc đi chơi xa . Áo thường có áo ngắn hoặc áo
dài và thường màu nâu . Vào những dịp tết nhất , hội hè người ta thường mặc áo
mớ ba mớ bảy , mỗi áo một màu . Vấn ngoài áo nơi thắt lưng là bao hay thắt lưng
bằng lụa nhiều màu . Trước kia phụ nữ mặc váy , gần đây mới mặc quần .
Đồ trang sức bằng đá quý , đồng , bạc
và vàng đã có từ lâu . Ngoài ra phải nói
đến ăn trầu và nhuộm răng đen – một hình thức trang sức không chỉ có ở nữ và cả
nam giới .
Đàn ông xưa để tóc dài búi sau gáy rồi
vấn khăn theo kiểu “ đầu rìu ” mãi sau này mới có khăn xếp và cắt tóc ngắn . Áo
có hai loại áo ngắn và áo dài . Ngày hội , ngài lễ người ta thường mạc áo kép ,
áo trong màu trắng , áo ngoài màu đen hoặc xanh .Quần căt theo kiểu “ chân què
lá tọa ” màu nâu hoặc màu trắng .
a ,Trang
phục miền Bắc
Chúng ta dễ dàng thấy được sự hòa
quyện giữa cái trầm lắng và cái sống
động , giữa cái nhiều vẻ với cái đại đồng bởi nói tới trang phục truyền
thống miền Bắc là nói tới trang phục của miền đất gắn bó từ khởi nguyên cội
nguồn dân tộc thủa các vua Hùng , của miền đất với bốn mùa thời tiết mưa nắng ,
nóng lạnh khác nhau rõ rệt , của miền đất mà suốt một trường kì lịch sử gần bốn
ngàn năm lịch sử …
Nói tới trang phục miền Bắc là nói
tới trang phục của bộ phận người Kinh ,so với cả nước sắc thái địa phương được
thể hiện tương đối rõ rệt từ Đèo Ngang – Sông Gianh trở ra .Gương mặt đầy đủ và
điển hình nhất của bộ trang phục Kinh truyền thống là vùng Kinh Bắc – Hà Nội .
Người ta nói rằng ở kinh đô Hoa Lư thời Đinh , Lê ,Lý vẫn còn nơi gọi là phố
Hàng Đào ,nơi đó người ta vừa mặc đẹp lại vừa làm ra các thứ may mặc cho kinh thành
, ngoài ra còn Hàng Nón , Hàng Lược , Hàng Long , Hàng Da , Hàng Bạc …là nơi
sản xuất và buôn bán những thứ dung cho may mặc của con người .
Đặc điểm
trang phục
* Nón
Chiếc nón là biểu tượng của con người Việt Nam và người phụ nữ Việt Nam
, nhưng có lẽ không ở đâu như miền Bắc ,chiếc nón lại lâu đời và đa dạng như
vậy .Hà Nội 36 phố phường có cả một phố ( Hàng Nón ) mua bán đủ kiểu nón của
dân kinh thành và vùng lân cận . Cả nam lẫn nữ ,tiện dân cũng như kẻ sang ,quan
lại đều dung nón ,nhưng nón của phụ nữ hơn cả một vật thường tinh che nắng đôi
mưa mà còn tạo nên vẻ đẹp riêng ,vẻ đẹp cô gái Việt Nam không thể thiếu cánh nón :
Cái nón ba tầm
Quai thao một nắm ,áo trầm một đôi
Cái thắt lưng em bảy tám vuông sồi …
Loại nón đặc trưng cho dân Kinh Bắc , Hà Nội và một số vùng lân cận là
nón thúng . Nón làm bằng lá , mặy phẳng rộng , thành cao ,nón thúng quai thao
ken bằng lá cọ mỏng khâu bằng móc trắng như cước , phía trong nón thêu hay dùng
những mảnh gương nhỏ xếp thành hình hoa
, rồng , phượng . Giữa nón có khua nón quang dầu , chính giữa đáy khua gắn
chiếc chén bạc , chạm hoa lá , hình lưỡng long chầu nguyệt , gắn tấm gương soi
, để các bà ,các cô giữ ý soi gương . Quai thao thường được gọi là cổ thao ,gồm
10 sợi dây tròn , dệt bện bằng tơ , 2 đầu có tua buôc thành nhiều quả thao .
Thao nhuộm thâm kĩ , buộc vào 2 bên nón bằng 2 cái thẻ bằng bạc , hình tam giác
, trên mặt trạm khắc hình hoa lá , rồng . Thời
trước thao có tiếng đẹp là thao của thợ làng Triều Khúc , Tương Giang (
Tiên Sơn ) . Loại nón quai thao này thường hợp với bộ áo năm than mớ ba mớ bảy
, áo tứ than , làm tôn lên vẻ đẹp của cô gái Kinh xưa :
Ai làm cái nón quai thao
Để cho anh thấy cô nào cũng xinh
Nón của các bà vãi , các cụ bà đi lễ
chùa là nón ba tằm . Cũng là nón thúng nhưng sâu và mảnh dẻ hơn .
Các bà buôn bán nới thành thị , nhất
là ở chợ quê thì đội nón nhị thốn
Những năm đầu thế kỉ này , Hà Nội và
các tỉnh kế cận còn sử dụng nón chuôm ( làm ở làng Chuôm – Hà Tây ) và các nón
từ nơi khác tới như nón Nghề , quai thao
Cô kia nón Nghề quai thao
Chồng cô đánh giặc đến bao giờ về
Ngoài các loại nón trên , phụ nữ Bắc
thời kì này còn sử dụng các các loại nón từ miền Trung mang ra như nón dứa Huế
( hay còn gọi là nón bài thơ ) được làm bằng lọai lá dứa mỏng , trong suót ,
khâu bằng móc nhỏ khéo như dệt vải đội rất mát . Thường trong lần lá nón ,
người ta ghép hình bài thơ ,, khi soi nón lên trông khá rõ mang tính chất như
hoa văn trang trí . Nón Gò Găng ( Bình Định ) cũng nổi tiếng bởi lợp bằng lá
dứa . Nón Ba Đòn ( Quảng Bình ) và nón
Kỳ Anh thì lợp bằng loại lá gồi nhỏ , lấy từ trong rừng xa rất tốn công .
* Chải tóc , đội khăn
Phụ nữ miền Bắc xưa kia vấn tóc quanh đầu . Khăn vấn là một miêng vải
dài , bằng hàng the , nhung , nhiễu , lượt , người nghèo thôn quê dùng vải bông
thường nhuộm nâu non hay thâm .
Cách thức chải tóc rẽ ngôi của phụ nữ
xưa cũng có nhiều nghĩa , phần nhiều các bà ,các cô rẽ ngôi giữa chán chứng tỏ
người chin chắn , đoan trang , do vậy hễ thấy cô gái nào bạo dạn dám rẽ ngôi
lệch sang một phía thì hay bị mọi người
dị nghềị , lườm nguýt cho là lẳng lơ .
Ở vùng Nghề Tĩnh , phụ nữ ưa vấn tóc trần quanh đầu , không cần đến độn
tóc đến khăn vấn . . Còn ở đồng bằng Bắc Bộ , nhất là ở Kinh Bắc , thị thành
thì trái lại .họ coi vấn tóc không có khăn là không sang trọng , mà phải có độn
có khăn vấn .
Vào mùa rét phụ nữ Bắc chit khăn vuông .Khi trời rét dữ họ chit khăn
xuống cằm hay chỉ trùm phần tóc vấn khăn
, theo kiểu chit khăn mỏ quạ tức mép khăn gập hình tam giác ngay trước chán .
Để tránh “ rám má hồng ” các cô đội khăn mép sát lông mày , quấn chéo 2 đuôi
khăn che kín cả miệng , mũi chỉ để hở 2 con
mắt .
Phụ nữ Nghệ Tĩnh thì khác , đội khăn
vuông đen không tạo thành hình mỏ quạ trước chán mà thành hình đầu rìu . Phụ nữ
Kinh Bắc , Hà Nội những dịp hội hè , lễ tết các cô đội khăn vành dây . Khăn vải
dày , quấn nhiều nếp trên đầu , quấn khéo mỗi lượt khăn để lại một nếp mí , đều
đặn cứ cao dần lên . Măt ngoài khăn quấn vành dây hồng vừa để giữ khăn cho chắc
vừa trang tri . Trong dám tang , khăn thuần túy mang chức năng tình cảm , tâm
lí nhưng qua đó cũng thấy mói quan hệ của người đội khăn với người quá cố :
khăn trắng , buộc xõa mối , khăn đỏ , khăn vàng … tương ứng với quan hệ cha con
,ông cháu chắt …Chiếc khăn còn là biểu tượng của cái đẹp của tình cảm con người
:
Miệng cười như thể hoa ngâu
Chiêc khăn đội đầu như thể hoa sen
Nón trắng mà đội thao đen
Rồi :
Khăn thương nhớ ai
Khăn rơi xuống đất
Khăn thương nhớ ai
Khăn vắt lên vai
* Nhuộm răng đen , ăn trầu
Đây là hình thức trang trí khá cổ xưa của phụ nữ VN nói chung và đặc
biệt là phụ nữ miền Bắc . Thực ra tục ăn trầu có ở nhièu nước vùng Đông Nam Á
nhưng không ở đâu ăn trầu và nhuộm răng lại lại kết hợp và hỗ trợ nhau đạt tới
hiệu quả trang sức cho vẻ đẹp độc đáo của người phụ nữ Kinh .
Thiếu nữ tuổi trưởng thành , tuổi từ 13 – 14,bà mẹ đã hướng dẫn cho con
nhuộm răng , ăn trầu . Nhuộm răng đen qua 2 bước . Lúc đầu dùng cánh kiến đỏ
hòa với chanh bôi lên răng khoảng 7 đến 8 ngày , răng có màu đỏ già sau đó
nhuộm đen bằng cánh kiến hòa với phèn đen . Khi răng có màu đen bóng như ý ,
người ta chiết màu răng bằng nước dưa chua hay mụội nhựa sọ dừa . Sau một thời
gian răng phai màu ( răng cải mả ) phải nhuộm lai . Răng đen là vẻ đẹp của người phụ nữ xưa :
Năm quan mua lấy miệng cười
Mười quan mua lấy con người răng đen
Cũng như nhuộm răng đen , ăn trầu làm
đỏm , làm dáng . Nhai trầu nơi miệng , nưốc trầu làm môi đỏ mà chẳng khiến son
, men trầu làm say hồng đôi má mà chẳng cần tới phấn . Có lẽ chính ăn trầu làm
đẹp làm duyên them người con gái như vậy nên từ xưa trầu cau miếg trầu còn là
biểu tượng của tình yêu , của quan hệ chung thủy , đẹp đẽ giữa con người với
con người .
Trầu vàng sánh với cau xanh
Duyên anh xứng với tình em tuyệt vời
* Lông mày , lỗ tai , trang sức
Từ xa xưa các cô gái Kinh đã biết tỉa
lông mày thanh nhỏ ,kiểu lông mày lá liễu làm cho đôi mắt đẹp , sắc xảo .
Các em bé gái còn nhỏ đã xỏ lỗ tai để
khi trưởng thành đeo khuyên , hoa tai trằm ,nụ thông , cuống giá … bằng vàng ,
bạc …Các bà ,các cô ở miền Bắc sít khi đeo vòng cổ , đeo kiềng như phụ nữ miền Trung , miền Nam , mà người giàu sang
nơi thành thị ưa đeo hột vàng quanh cổ cao ba ngấn .Vàng đánh thành hạt nhỏ như
hạt hồ tiêu , xâu lại thành chuỗi , khoảng 3 đến 4 trăm hạt , quấn 3 – 4 vành
phía trên cổ yếm , phần còn thừa để rủ trước ngực .
Nơi cổ tay người giàu thì đeo vòng vàng
, vòng ngọc , xuyến vàng ,còn người nghèo thì đeo vòng bạc . Ở đất Hà Thành ,
người có của nhưng biết cách ăn mặc thì chỉ đeo 3 vàng hạt vàng ở cổ và một đôi
xuyến tay ,
Phụ nữ đeo nhẫn ở ngón tay , thường ở
ngón tay nhỡ cùng với chiếc nhẫn cưới . Các cô chưa lập gia đình đeo nhẫn chạm
hoa ở ngón tay giữa . Các bà có chồng đeo nhẫn tròn ở ngón tay nhỡ ..
Chùm xà tích bằng bạc cũng là nét độc
đáo của đồ trang sức miền Bắc xưa .Thường mỗi chuỗi xà tích có 4 – 5 dây , mỗi
dây mang một thứ : chìa khóa , ống vôi , díp …óng vôi bạc đánh hình quả đào có
hình chạm trổ .
* Yếm
Câu cửa miệng người xưa “ váy vận yếm
mang ”để nói duyên số không tách rời giữa váy và yếm.
Yếm có mặt từ thủa các vua Hùng , đi
cùng với dân tộc từ thủa trong nôi cho tới khi gặp gỡ Đông Tây , để từ đó phụ nữ lựa chọn , nhập
than chiếc yếm cổ truyền vào chiếc nịt ngực hiện đại . Yếm là bộ phận nữ phục
được các bà , các cô chăm chút , từ kiểu may cắt tới màu sắc sao cho phù hợp
với từng lứa tuổi , từng lớp người .Ngày xưa ai cũng biết tự làm yếm cho mình ,
không ai bán yếm may sẵn , coi đó là lộ liếu ,ngay khi giặt cũng phải nơi kín
đáo .Yếm thường phân biệt ở kiểu cách may cổ và dải yếm . Yếm cổ xây có từ thời
dựng nước , cổ khoét tròn tỉ mỉ , khi mặc làm tăng them vẻ đẹp của cổ cao ba
ngấn . Ngoài ra còn có yếm cổ xẻ , mới hơn là yếm cổ kiềng . Dải yếm với màu sắc
khác nhau từ 2 mép yếm choàng qua sau lưng , dải thừa buông xuống váy . Thường
các cô gái thị thành yếm trắng , yếm màu hồng , còn ở nông thôn thì các cô mặc
yếm nâu hao hiên , khi hội lễ lại tưng bừng yếm đào , yếm đỏ … Thông thường yếm
mặc trong áo buông vạt , nên một phần than yếm trước phô thấp thoáng sau hai tà
áo . Ngày nóng bức người thôn quê mặc yếm không , đẻ cả phần lưng và phần lườn
hở , người đương thời coi là đẹp : “ đàn bà yếm thắm hở lườn mới xinh ”
* Áo
Áo của người miền Bắc có nhiều loại : áo
cánh ngắn , các loại áo dài mặc ngoài , áo ấm , áo lễ , áo tang …Trước nhất chiếc yếm luôn đi liền
với kiểu áo cánh ngắn , cổ tròn , tà mở , thường mặc không cài cúc để hở yếm
bên trong . Áo may bằng vải mộc nhuộm nâu , gụ sau này có them các loại vải
phin , pôpơlin màu , cải tiến các loại cổ , ly , tà … Xưa kia nhất là ở thành
thị , ra đường ít thấy phụ nữ măc áo cánh , mà thường phải mặc thêm áo dài . Áo
dài của phụ nữ có loại tứ thân , năm
thân .
Tên gọi tứ thân hay năm thân là bắt
nguồn từ khổ vải may của ta xưa kia thường hẹp , phần lưng phải ghép hai khổ
vải ở giữa đường sống lưng thành 2 thân sau , còn 2 thân trước là hai tà áo ,
khi mặc bỏ buông tay hay thắt hai vạt áo vào nhau ở trước bụng hay ở sau lưng .
Từ chiếc áo tứ thân cổ sơ , sau này do nhu cầu phải thay 2 vạt và 2 vai là nơi
hay bị sờn rách nên phụ nữ đã sáng tạo ra loại áo tứ thân “mốt ” thay vai hay
đổi vai . Thường khi thay vai ,vạt hay khi may mới người ta lưu ý , vai hay vạt
thay bằng những loại vải màu khác nhau hay so le muốn cho mọi người biết là mốt
chứ không phải do áo cũ , áo rách phải thay .
Phụ nữ thành thị hay người sang thôn quê
hay mặc áo dài năm thân . Hai thân trứơc phía ngoài gọi là vạt cả , một thân
bên trong gọi la vạt con . Loại áo này cài cúc bên sườn ,nhưng thường khi mặc
người ta khép vạt cả lên vạt con rồi dùng thắt kưng buộc lại cho chặt . Cúng có
khi mặc áo dài năm thân với yếm , khi đó máy hầng cúc ở gần cổ không cài , đẻ
hở một phần cổ xây bên trong .
Với kiểu áo năm thân , phụ nữ xưa hay mặc
kiểu “ mớ ba mớ bảy ”thậm chí “ mớ chin ” , tức là một lúc người ta mặc một bộ
ba , bảy hoặc chin cái áo dài chồng lên nhau , mỗi cái mang màu sắc khác nhau ,
thường ngoài cùng là áo vải the màu thâm , nâu hoăc tam giang , còn các áo
trong là màu mỡ gà , cánh sen , vàng chanh hồ thúy ..Mặc mớ ba mớ bảy là kiểu mặc của kẻ
sang , nên không thể tùy tiện về màu sắc , thứ tự và kiểu may các áo trong một
bộ . Cái nghề thuật của người mặc mớ ba mớ bảy là làm sang làm dáng nhưng vẫn
kín đáo . Nếu nhìn thẳng khi ngồi lúc ta chỉ nhìn thấy màu áo ngoài giản dị ,
nhưng nhìn bên vẫn thấy tà áo trong lấp ló với nhiều màu sắc khác nhau . Nhất
là khi mặc kiểu này người ta không cài cúc từ cổ chéo xuống nách , để các lớp
áo màu bên trong đều phô ra ngoài bằng riềm vạt nhỏ .Đó cũng là cách tạo nên
dáng đẹp hài hòa giữa màu áo , yếm làm tôn thêm vẻ cao thon của cổ ba ngấn : “
cổ cao ba ngấn , miệng cười trăm hoa ”
Mùa rét mọi
người mặc thêm áo kép , áo mềm .Áo kép thêm một lần lót trong màu tươi tạo nên
vẻ đẹp kín đáo của màu sắc . Áo mền cũng tương tự như áo kép nhưng giữa 2 lần
vải ngoài còn có lớp dựng bằng vải dày thô . Áo bông thì trần quân cờ , vừa bền
vừa ấm , đẹp mặc khi đi chơi cũng như khi đi làm .
* Áo tang , áo tơi
Trong chủng loại áo của người phụ nữ Bắc
Hà ,còn kể tới áo tang , áo tơi … Áo tang may bằng vải xô , màu trắng , may
kiểu áo dài tứ thân hay năm thân , xổ
gấu . Đặc biệt phụ nữ Bắc Trung Bộ và Bắc Bộ dùng áo tơi tránh mưa , tránh gió
rét và còn có khi còn tránh cả nắng nóng . Áo tạo bằng loại lá gồi , tách từng
lọai rẻ nhỏ rồi ken lại với nhau thành từng lớp , dai từ cổ áo tới gấu . Khi
mặc người ta choàng quanh người , thít dây buộc cổ lại vừa tầm vai .
* Thắt lưng
Thắt lưng hẹp khổ dài , may bằng sồi ,
nhiễu , lụa …với màu xanh lục , màu đỏ già ngả sang nâu , màu mỡ gà …Ở hai đàu
thắt lưng người ta khâu viền hay se những tua chỉ . Người thôn quê hay dùng
thắt lưng hay ruột tượng hay thứt lưng bao , biến thắt kưng thành thứ túi dài ,
có thê đựng tiền , trầu thuốc và các thứ lặt vặt khác
* Váy
Dẫu ở kinh thành đô hội hay ở thôn quê
hẻo lánh , cho tới ngày có “ chiếu vua ra ” ( thời Minh Mạng ) thi phụ nữ vẫn
tự hào với cái váy cổ xưa . Giữa thế kỉ XVII , vua Lê Huy Tông ra chiếu cấm mặc
quần để ngăn chặn chiếc quần “ ngoại lai ”
theo gót quân xâm lược vào lấn át váy cổ xưa , thì tới thế kỉ XIX vua
Ming Mạng lại xuóng chiếu cấm mặc váy với mục đích bắt phong tục miền Bắc phải
theo phong tục miền Nam có từ thời các chúa Nguyễn , và để khỏi mặc cảm với
chiếc váy quê mùa , “ hèn kém ” trước
văn minh “ Thánh hiền ” của người Trung Quốc mà nhà Nguyễn đang cố mô
phỏng theo .
Váy của người Kinh không còn là mảnh
vải quấn quanh thân , hay cái váy hình ống mà đã là chiếc váy chiết cạp cho vừa
với eo bụng rồi thắt giải rút hay thắt lưng cho chặt , tuy nhiên dấu vết của
chiếc váy cổ xưa vẫn còn đẻ lại qua cách mặc luồn qua đầu , tương tự như cách
mặc của người Thái , Mường hiện nay . Tùy theo từng lớp người mà mặc những loại
váy may bằng các loại vải khác nhau , nghèo thì mặc váy vải , khá hơn thì mặc
váy the , lĩnh …Váy nhất loạt nhuộm màu đen . Cầu kì hơn các cô gái Kinh kì mặc
tấm váy lưỡi trai bảy bức may ghép từ
bảy tấm vải bằng sôi , thân và gấu váy thành hình cong cong lưỡi trai .
Màu thâm của váy làm nền cho những giải thắt lưng màu hồng đào , hoa lí …
Với cuộc sống và điều kiện làng quê xa
xưa , chiếc váy khá tiện lợi trong công việc và trong sinh hoạt của các bà ,
các cô .Khi đi làm đồng phụ nữ mặc váy ngắn , qua những chỗ lội , đoạn sông ,
váy nâng lên theo kiểu “ nước cao tới đâu váy dâng tới đó ” , do vậy dân gian
mới có câu nói đay nghiến :
Có đâu như đát
làng mình
Hễ ra tới ngõ ,
váy nghinh lên đầu
Lúc lội ruộng làm cỏ , bón phân , người
ta xắn váy cao rồi bó túm gấu váy trước và sau lại , tạo thành cái quần hai ống
, vừa gọn vừa tiện . Trong sinh hoạt váy tiện lợi khi đi đứng , sinh đẻ , kiểu
“ đái không ngồi ” là một thứ ứng xử sinh hoạt đi liền với cái váy xứ Bắc Hà .
Khi vui chơi tình tự , cái váy cũng làm nên nhiều nét trữ tình . Bức tranh dân
gian “ hứng dừa ”nổi tiếng với cảnh cô gái tung váy hứng dừa do chàng trai hái
trên cây ném xuống :
Khen ai khéo tạo
nên dừa
Đấy trèo đây
hứng cho vừa lòng nhau
Từ thời Nguyễn và có thể sớm hơn diễn ra
sự thay thế không thiếu nhọc nhằn của
cái quần thay cho cái váy .với những chiếu vua , lệnh cấm , lời khen , tiếng
chê…lúc đầu chiếc quần “ đặt chân ” nơi thành thị , sau mới lan tỏa về nông
thôn từng bước dè dặt tới mưc người nho nhã , sang trọng , kẻ tu hành chưa dám
dùng từ “quần ” mà dùng từ “ hạ y ”. Ngày nay khi chiếc quần đã chiến thắng
hoàn toàn thì xu hướng mới trong ăn mặc lại đang bàn tới việc phụ nữ , trước
nhất lf các em nữ sinh , trở lại với cái váy , tất nhiên đấy không phải là
chiếc váy đen cổ xưa mà được nâng cao , hâpls thụ cái đẹp của mọi phương trời .
Cảm quan màu sắc
Để may quần áo , phụ nữ thường dùng
vải bông và vải lụa tự dệt , sau mới thêm các loại vải du nhập bên ngoài .
Trong cách ăn mặc , việc lựa chọn chất vải , màu sắc phụ thuộc vào khí hậu từng
vùng , vào tâm lí và sở thích mỗi lớp người trẻ , già , gái , trai …Vải bông là
thứ vải thường dùng , người ta đẻ trắng , nhuộm tâm hay nâu đẻ mặc . Người
thành thị , giàu sang hơn thì chọn may
hàng lụa the , sồi , đũi , nhiễu , gấm …
Qua màu sắc trang phục ta hiểu được
cảm quan thẩm mĩ , xuất xứ xã hội và tính cách tâm lí từng người .
Màu thường gặp của người phụ nữ là màu
thâm ( hay đen ) , nhuộm thâm không dễ , nếu không khéohay ngả màu bạc , loang
lố trông rất xấu .The nhuộm thâm thì phải dùng sồi , lá bàng , vừa bền màu , mà
tấm the nhẹ , mềm , còn khi ngả màu thâm bằng cách nhấn bùn thì the vừa dễ
bạc , cầm tấm the thấy cứng , dày .
Gần với màu thâm là màu nâu , màu ưa
chuộng và đăc trưng của y phục miền Bắc .Màu nâu già nhuộm nhiều nước , giãi
nhiều nắng , lại nhấn thêm bùn ngả sang màu nâu đen ., là màu sắc ưa thích của
người thôn quê “ ăn chắc mặc bền ” .
Người trẻ đỏm dáng hơn thì ưa màu nâu non , nền vải ngả từ màu nâu sang hơi đỏ
sậm , rất hợp với nước da của cá cô gái quê .
Màu hay dùng có vẻ hơi sang một chút
là màu tam giang ( ngả giữa nâu và đen ) là nàu nhã nhặn , hợp với tuổi già .
Các bà , các cụ hơi có của một chút hay mặc áo đoạn tam giang , chit khăn nhiễu
tam giang . Các cô gái thôn quê hay thành thị khi vấn khăn thường ưa dùng khăn
nhiễu màu tím .hay nhung đen tuyền ánh tuyết làm tôn lên khuôn măt trái xoan
trắng hồng
Màu hoa hiên ( ngả giữa da cam và đỏ )
là màu ưa thích của các cu già nông thôn hay may yếm – yếm hoa hiên . Vì vậy mà
màu hoa hiên bị coi là màu quê mùa . Những cụ già , các nà góa bụa đã yên phận
ở thế nuôi con thì lại ưa màu cánh kiến , ngả giữa đỏ và nâu , gây cảm giác già
dặn , vững chãi và nín chịu .
Nếu các màu
thuộc sắc đằm , đẫm theo quan niệm truyền thống là thế giới bên dưới , thế giới
âm , tạo nên nền của nữ phục truyền thống miền Bắc thì trên nền đó còn có những
sắc độ tươi tắn , tuy không thành mảng , thành nền nhưng nó điểm xuyết vào
những mảng mầu thẫm ấy , tạo nên màu phù hợp với tâm lí kín đáo nhưng vẫn rạng
rỡ của người con gái .
Những ngày hè nóng nực các bà các cô
nơi thành thị ưa dùng hàng lụa , the La Cả màu trắng trông rất trang nhã . Các
màu sáng như thanh thiên ( xanh da trời) hồ thủy ( nước hồ ) , nguyệt bạch ( trắng hơi
đục ) thường được dùng đẻ may các loại áo trong của bộ mớ ba mớ bảy , may áo
lót mặc trong nhà . Màu hoa đào trong
quan niệm dân gian là màu bóng bảy , thậm chí lẳng lơ , người tử tế , nhút nhát
ít dám dùng , nhưng cũng có cô tỉnh thành bạo dạn mặc ra đường làm mọi ngừời
phải bàn tán , nhưng trên sân khấu chèo đình làng thì lại là bình thường .
Màu đỏ và vàng là màu ít dùng trong y
phục. Loại áo vóc , gấm màu đỏ tươi chỉ dành cho y phục các bậc quan , hay quần
áo mừng bậc cha mẹ , ông bà trong ngày thượng thọ gọi là màu “ đại hồng ”.
Trong xã hội phong kiến màu vàng được coi là màu cấm , chỉ dùng cho vua và các
bậc công thần thượng đẳng trong cung đình .
* Guốc dép
Là bộ phận không thể thiếu trong bộ
trang phục .Người phụ nữ thôn quê khi đi làm hay vào mùa nóng nực thường hay đi
chân đất , vào hững ngày đông thàng giá khi đi thăm hỏi , dự đình đám , hôi hè
họ thường mang guốc gộc tre hay dép da quai ngang . Guốc tre đẽo từ đoạn gộc
tre , đé guốc liền với mũi khi đi hai chân hơi lết trên mặt đất . Dép da trâu
quai ngang cũng là của những người nghèo làm từ miếng da mộc , giữa có quai
ngang , đầu dép có vòng da nhỏ đẻ xỏ một ngón chân vào giữ cho chắc , khi đi có
thể bước chân dài , chân nhấc cao hơn .
Những người sang trọng , nhất là ở
thành thị dùng guốc dép loại sang và thường xuyên hơn , như guốc khắc hoa xứ
Nghề , giày đế cao quai da , thép Thái mũi hơi cong , quai da bọc nhung , các
loại giày da lợn , giày cườm , giày Gia Định , guốc Kinh , dép cong được các bà
cô ưa thích . Giày cườm là loại giáy sang trọng , quai đính nhiều hạt cườm ,
dùng cho cả nam và nữ . Guốc Kinh là loại guốc của kinh đô Huế , đế bằng dừa
hay gỗ nhẹ , sơn trắng , mũi thêu kim tuyến .dép cong thường hợp bộ với loại
xống áo năm thân kiểu mớ ba mớ bảy , nón thúng quai thao . Dép bằng nhiều lớp
da ghép lại , mũi cong cao , bước đi hơi khó nhưng là loại dép sang trọng bậc
nhất đương thời , hợp với các bà , các cụ gia đình quyền cao chức trọng .
Trong tân hôn của các gia đình môn đăng
hộ đối ,cô dâu chú rê đi đôi văn hài .
Mấy chục năm trở lại đây cũng như quần áo ,
khăn nón , guốc dép của phụ nữ cũng thay đổi nhiều . Trước nhất , những người ở
nông thôn hay ở thành thị dùng guốc dép phổ biến hơn , dùng trong nhà , ra
đường có thẻ cả khi làm việc nữa . Phụ nữ nông thôn dùng guốc gỗ quai nhựa , đế
guốc thấp , đi dép cao su đen . Ở thành thị ngoài số phụ nữ , thường là nữ
thanh niên dùng các loại dép ,có khi cả giày , loại cao gót , du nhập từ nứoc
ngoài , còn đa số dùng các loại guốc với kiểu cách và trang trí khác nhau . Từ
khoảng những năm 30 trở lai đây , phụ nữ mối đi guốc cao với phong trào Phi mã
. Càng về sau này xu hướng chung là càng ngày guốc dép phụ nữ gót càng cao , có
khi tới 10 cm hay cao hơn nữa , gót guốc dép thay đổi , lúc nhọn thon , lúc to
bằng , phù hợp với kỉểu quần áo , với ống quần rộng hẹp khác nhau .
b , Sắc thái trang phục cổ truyền Huế
Suốt dải miền Trung dằng dặc nối liền
miền Bắc với miền Nam hai đầu đất nước , ở giữa xứ Quảng phía Nam và xứ Nghệ
phía Bắc , Huế nổi lên như một phong cách địa phương độc đáo về cảnh sắc thiên
nhiên , nếp sống con người , không chỉ của miền Trung , mà còn của cả nước – Hà
Nội , Huế , Sài Gòn . Nói tới Huế là phải nói tới dải đất từ Đèo Ngang phía Bắc
tới Hải Vân phía Nam , nằm gọn trong 3 tỉnh Quảng Bình , Quảng Trị , Thừa Thiên
Huế ngày nay , có một chiều dài 300km . Huế - Bình Trị Thiên trong những năm
gần đây đã trở thành trung tâm chính trị , văn hóa của nhà nước phong kiến ,
nơi có Phú Xuân là thủ phủ Đàng Trong thế kỉ XVII – XVIII , là Kinh đô của Đại
Việt từ thế kỉ XVIII – XIX , thời kì Tây Sơn và nhà Nguyễn sau đó . Phú Xuân –
Huế đã tiếp thu và kế tục văn hóa Thăng Long để tự mình trở thành một trung tâm
văn hóa của miền Trung và cả nươc một thời . Suốt trong thời kì thực dân Mĩ ở
miền Nam , Huế với bản lĩnh , bản sắc vốn có của mình , là thành phố đi đầu
trong việc bảo vệ những giá trị văn hóa truyền thống của quê hương mình. Chính
trong môi trường tự nhiên , lịch sử và văn hóa như vậy đã tạo nên phong cách
Huế , mà ăn , ở , mặc là những “ mảng màu ” quan trọng .
Hài hòa trong ăn mặc , sử dụng màu sắc
là một trong những nét nổi bật của phong cách Huế , con người Huế . Cảnh sắc
thiên nhiên đã ảnh hưởng nhiều tới thẩm mĩ và thị hiếu ăn mặc của người Huế .
• Nón
Nón bài thơ cùng tà áo dài luôn đi liền
với hình bóng người phụ nữ Huế mọi lúc ,
mọi nơi , trong nhà ngoài phố .Đến Bình Trị Thiên từ phía Bắc ai cũng biết
tiếng nón Triều Sơn .Những làng thủ công làm nón này , người thợ biết mấy công
phu chằm nên những chiếc nón khéo léo ít nơi nào sánh kịp vành tre cật chuốt
nhỏ như tăm , mượt trơn như ngà , nhẹ như khung bấc , những tấm lá cọ phơi khô , trắng muốt xếp
đều đặn trên mặt khung , những sợi cước
trong suốt khâu kín đáo , tỉ mỉ những lá cọ mềm vào thân nón cầm nón soi lên
trời , giữa những lần lá mỏng tanh , xen giữa những cánh hoa là câu thơ được
thợ lồng khéo vào giữa các lớp lá . Nếu người Kinh Bắc tạo ra chiếc nón thúng
có quai thao thì nón bào thơ Huế có chiếc quai lụa nõn đủ màu sắc , khi thì màu
tím ấp ủ , khi thì xanh ánh trăng hay màu biếc của liễu non, khi lại màu vàng
mỡ gà , khi lại màu hồng rang chiều , cũng có khi người ta chọn chiếc quai nón
lụa trắng bạch hay giải gấm đen tuyền , tôn thêm làn da , khuôn mặt người đội
nón .
Cánh nón bài thơ Huế khi đội trên đầu , khi
nghiêng nghiêng che hờ nửa mặt , đã làm xốn xang nhãng kẻ hữu tình :
Ra về
đã tới giữa đồng
Nón che
tay ngoắt động lòng trở lui
• Tóc
Không
như thiếu nữ Bắc Hà thiếu nữ 13 – 14 mẹ đã dạy cách chải tóc vấn khăn thiếu nữ Huế thường để xõa tóc bờ vai , tóc
thề , các em học sinh đến trường kẹp tóc gọn gàng để chảy nhẹ xuống xuống lưng
áo dài màu tím . Khi đã có chồng con , thành niên , các bà chải tóc ngược lên (
gọi là chải láng ) rồi búi gọn sau gáy như phụ nữ Nam Bộ . Cũng có đôi người
vẫn giữ cổ tục đất Bắc xưa , vấn tóc quanh đầu nhưng không dùng khăn mà để tóc
trần như vùng quê Nghệ Tĩnh . Mái tóc Huế không chỉ đẹp kiểu dáng mà lúc nào
cũng như tắm trong hương sắc đât trời , mùi nhẹ nhàng thoang thoảng nơi mái tóc
hoa bưởi , hoa cam , hoa quút , bồ kết , hương bài , hoa lí , hoa nhài …Hương
hoa ướp từ nước gội đầu nhưng cũng có khi trên mái tóc kín đáo cài thêm bông
hoa thiên lý :
Tóc em dài em
cài hoa thiên lý
Miệng em cười có
ý anh thương
Cũng chính vì vậy phụ nữ Huế ít dùng
nước hoa hay chỉ dùng đôi chút thoảng nhẹ , bởi vì thiên nhiên và con người ở
đây lúc nào mà chẳng thoang thoảng mùi hương
c Nam Bộ
Khái quát chung :
Nói tới Nam Bộ là nói tới vùng đất mới ,
vùng đất giàu có , thiên nhiên ưu đãi , đã dung nạp những người rời bỏ quê
hương cũ tới đây lập nghiệp . Tính chất mới mẻ hào phóng , cởi mở của thiên nhiên
,con người Nam Bộ đã thể hiện ở tính cách ở cách ăn mặc , giao tiếp của con người nơi
đây .
Người Nam Bộ xưa giản dị trong nếp ăn ở . Đi
khai phá vùng đất mới , chỉ có trong tay chiếc phảng phát cỏ , xuồng ba lá ,
chiếc nóp nằm tránh muỗi , nơi đã định cư thì có túp lều dựng từ thân , lá của
dừa nước . Quần áo của nam và nữ không mấy khác nhau , bộ bà ba đen mộc mạc với
tấm khăn rằn …Người Nam Bộ mới mẻ , để lại quê hương xứ Bắc , xứ Trung nhiều lề
thói , cùng cách sống cổ truyền , với bản lĩnh vốn có của mình vào đây tiếp thu
thích ứng , năng động , mới mẻ . Ta không thấy nơi người Nam Bộ những chiếc áo
dài tứ thân , năm thân với kiểu cách “ mớ ba mớ bảy ” , chiếc váy cổ truyền ,
chiếc yếm thắm cổ xây , đủ loại thắt lưng đỏ , xanh ,dây chuyền , xà tích …Ở họ
giản dị đến mới mẻ , do thích ứng , giao hòa với xung quanh tùy theo thời cuộc
để tạo nên bộ mặt mới , phong cách mới nhưng vẫn không xời bỏ cội nguồn . Khác
về phần ngọn trên cơ sở phần gốc truyền thống của dân tộc .
Cư
dân Kinh vào khẩn hoang ở Nam Bộ phần lớn là dân nghèo ở Đàng Trong . Nam cũng như nữ đến mặc áo cánh
ngắn ( áo lá ) vải bâu bắp cổ thấp , không có tay , xẻ vạt kiểu của miền Trung
. Quần của nam giới chỉ ngắn đến gối , quần phụ nữ thì dài hơn . Phụ nữ Đàng
Trong không còn mặc váy nhưng có người vẫn còn dùng yếm , nên có câu : “ đàn bà
quần vận yếm mang ” . Màu sắc chủ yếu của y phục thời kì là màu nâu sẫm ( nhuộm
bằng cây dà ) hoặc chàm sậm , nhả sang đen mốc ( nhuộm bằng cây cóc mọc dại ) .
vì đàn ông lẫn đàn bà đều có thói quen ăn trầu theo cổ tục nên vào giai đoạn
này , trang phục của nam giới còn đeo thêm “ hổ phệ ” ở ngang lưng ( hoặc bụng
) . Đó là loại túi bằng vải xếp nhiều lớp , có hai ngăn lớn , ngăn ngoài thuê
họa tiết hoa lá , ngăn trong đựng trầu cau , thuốc xỉa , hoặc có khi dùng cái
bọc nho nhỏ kết vào ruột ngựa và lận vào lưng quần . Người trí thức sư sãi
thường đeo túi “ hà bao ” , một lọai túi vải thuê hoa văn để dùng đựng đồ lặt
vặt . Cư dân lúc bấy giờ hầu hết chỉ chân trần , chỉ những người giàu có , quan
lại mới mang giày dép .
Vài nét riêng :
* Tóc :
Thanh niên nam nữ phần lớn còn búi tóc
. Phụ nữ có kiểu búi tóc cao lên giữa đỉnh đầu , còn đùm tóc ở phía sau có hình
như cái cổ gà rồi “ giắt kẻ vàng ”. Hoặc tóc được chải lật ra sau , búi cao uốn
thành ba vòng phía sau đầu rồi cài lược “ bánh lái ” bằng bạc hoặc vàng . Các
thiếu nữ cũng chải hớt tóc lật ra đằng sau rồi cặp hay bới lỏng thả dưới gáy .
Phụ nữ nông thôn quen bôi dầu dừa lên tóc cho láng mượt .Nam giới bới tóc xong
còn bao khăn , giắt trâm lên đầu như câu tục ngữ : “ Trâm cài lược giắt ” vốn
là tập tục từ thời Giao Chỉ . Chiếc lược giắt cho đến thập niên đầu của thế kỉ
XX còn là vật trang sức phổ biến của nam giới , ngay cả khi âu phục bắt đầu
thịnh hành :
Nực cười những kẻ hoài
thinh
Tiếng tây không biết tưởng
vinh trong đời
Áo vân quần nhiễu dạo chơi
Đồi mồi lược diễu , giắt
phơi trên đầu .
“ Áo vân quần nhiễu ” là những mặt
hàng đắt tiền dành cho người giàu có . Còn lược giắt làm bằng vấy đồi mồi có
diễu vàng là một món trang sức cực kì sang trọng cho đến năm 1915 vẫn còn dùng
nhiều.
* Trang sức
Phổ biến là hổ phách để làm chuỗi , cúc áo , nhẫn . Người ta còn dùng
huyền phách ( nếu nhà nghèo ) và ngọc bích , vàng ( nếu nhà giàu ) . Những dạng
nữ trang bằng vàng tiêu biểu vào đầu thế kỉ XX ở Nam Bộ là chuỗi hạt vàng quấn
nhiều vòng , kiềng đeo cổ để trơn hoặc chạm rồng và dây chuyền nách ( bộ dây
chuyền gồm nhiều vòng từ ngắn đến dài , vòng cuối cùng được vòng qua ngang
người ) .
* Áo :
Sự xuất hiện chiếc áo bà ba ở Nam Bộ vào lúc nào và như thế nào còn là
một vấn đề khá mơ hồ . Chưa có tài liệu nào xác định nguồn gốc của chiếc áo bà
ba đã được mặc khá phổ biến rông rãi chủ yếu là nam giới và trẻ em . Có thể áo
bà ba ảnh hưởng , cách tân từ áo lá và “ xá xẩu ” mau bằng vải buồm đen của
người Hoa lao động , là cổ áo cổ cứng , xẻ giữa , cài nút thắt …Có thể do thời
tiết quanh năm nóng bức , họ bỏ luôn chiếc cổ thấp của áo lá và áo xá xấu ,
mang thêm đinh áo quanh chân cổ cho chắc
.Áo xẻ giữa thay vì cài nút thắt đã được làm khuy , cài cúc nhựa do ảnh hưởng
của phương tây . Tay áo bà ba dài , có thể che được nắng gay gắt khi lao động ,
thuận lợi hơn chiếc áo lá ngắn tay .Áo vẫn được xẻ 2 bên vạt ở hông như áo lá
khiến người mặc nó dễ cử động thoải mái khi làm việc . Áo bà ba lại có thêm 2
túi to gần vạt áo thuận tiện việc để tiền bạc , thuốc , diêm … là những món đồ
mà nam giới luôn mang theo . Lúc đầu , nam giới thuộc tầng lớp trên ở NamBộ
thích diện khi đi chơi , đi ăn giỗ …họ mặc áo bà ba lụa trắng hoặc lĩnh đen ,
bịt răng vàng , đội nón nỉ , mặc quần trăng che dù … Dần dần phụ nữ Nam Bộ cũng
sử dụng áo bà ba phổ biến cho tới nay . Phụ trang đi kèm với bộ áo bà ba đen là
chiếc khăn rằn với hoa văn ô vuông xen kẽ 2 màu , là loại khăn có nguồn gốc từ
người Khơme mà ngừoi Kinh chịu ảnh hưởng
.
Khoảng những thập niên giữa thế kỉ này “ chiếc áo dài thường nhật ” của
phụ nữ lại bị biến mất khỏi đời sống sinh hoạt .Chiếc áo dài đen thường nhật
của nam giới biến mất khá sớm , muộn lắm cũng vào đầu thế kỉ XX , ngược lại áo
dài của phụ nữ lại tồn tại khá lâu . Áo dài thường may bằng lụa hoăc vải đen ,
cổ thường mở không cài cúc , tay áo hơi bó .
Thời Pháp thuộc , nhất là thời Mĩ – Ngụy áo bà ba truyền thống được phụ
nữ thành thị cải tiến , vừa dân tộc ,vừa hiện đại hơn . Áo không thẳng và rộng
như trước nữa mà được may hẹp hơn , nhấn thêm eo bụng , eo ngực cho ôm lấy thân
hình . Ngoài ra áo còn được cải tiến sáng tạo các kiểu chắp vai , cổ tay , cửa
tay .
Áo bà ba cải tiến chú ý tới các kiểu bâu ( cổ ) , như lá sen , chữ U ,
trái tim … là loại cổ khoét , không có ve , gần với kiểu cổ áo truyền thống ,
còn các loại bâu lá sen , cánh én , đan tôn …là các loại cổ có ve lật , tiếp
thu từ kiểu y phục bên ngoài
Các kiểu ráp tay cũng được cải tiến . Từ kiểu may áo cánh xưa , liền
thân với tay , người ta nghĩ tới cách ráp tay rời ở bờ vai áo
Trang phục
lễ cưới :
Xưa chú rể mặc lương the đen , quần vải trắng , đầu vấn khăn đen , cô
dâu mặc áo vân đen mỏng , quần đũi màu hồng sậm , cổ đeo chuỗi hổ phách “ hạt
to bằng ngón tay cái ” 2 tai xỏ đôi búp bạc . Dâu và rể đều khoác bên ngoài áo
thụng xanh , lót màu cánh sen , khi ra sân có cặp lọng che . Trong những gia
đình còn theo tục cũ , ít nhất cho đến 1940 cô dâu cũng còn mặc áo cặp gồm hai
áo dài gấm dài và rộng : áo trong thường màu đỏ hoặc hồng , áo ngoài màu lục
sậm , đội nón quai thao cổ đeo kiềng vàng . Chú rể cũng mặc áo cặp : áo trong
the đen , áo ngoài gấm xanh lam hoặc xanh sậm , đội khăn xếp xanh . Hiện nay dù
thời trang phát triển nhưng trong ngày cưới khi làm lễ trước bàn thờ gia tiên ,
chú rể có thể mặc âu phục nhưng cô dâu đều phải giữ y phục cổ truyền áo dài màu
hồng hay đỏ ( màu đại cát ) , chỉ trong
tiệc cưới cô dâu mới có thể thay bộ âu phục .
Tang phục :
Tương đối đơn giản , được áp dụng phần lớn theo tinh thần “ Thọ Mai gia
lễ ” . Để thể hiện tình cảm đau buồn
tang phục phải dùng vải thô , vải xấu màu trắng . Tang phục còn thể hiện mối
quan hệ thân tộc của người mặc nó với người chết . Trong đám tang cha , con trai
mặc áo xô “ trảm thôi ” ( vải chỉ to sợi may lai ) bên ngoài khoác áo gai ngắn
( chỉ sự đau xót khổ sở ) sau lưng kết miếng vải vuông gọi là “ phụ bản ”( ngụ
ý người con trai cõng trên lưng sự thương nhớ cha ) đầu đội khăn bít cân “ dây
rơm mũ bạc ”, tay chống gậy tre nếu tang cha , chống gậy ngô đồng hay cây vông
nếu tang mẹ . Con dâu và con gái chưa có gia đình riêng cũng mặc áo xô , đầu
đội khăn xô dài . Con gái nếu đã có gia đình riêng thì chỉ bịt khăn tang ( vì
xem là thành viên thuộc gia đình chồng ) . Cháu nội của người qua cố mặc áo
tang “ tư thôi ” , đội khăn bít cân ( bít cân là tấm vải vuông cạnh khoảng 0,6
m ) xếp chéo , may hai dây buộc để khi đội cột 2 dây lại . Còn nếu cháu ngoại
thì chỉ bít khăn tang , phía trước khăn tang có một chấm đỏ để phân biệt . Điều
này thể hiện vị trí độc tôn của nam giới trong xã hội VN .
3, ẨM THỰC
Việt Nam là một nước nông nghiệp thuộc
về xứ nóng, vùng nhiệt đới gió mùa. Ngoài
ra lãnh thổ Việt Nam được chia ra ba miền rõ rệt là Bắc,
Trung, Nam Chính các đặc điểm về địa lý, văn hóa, dân tộc, khí hậu đã quy định
những đặc điểm riêng của ẩm thực từng vùng - miền. Mỗi miền có một nét, khẩu vị
đặc trưng. Điều đó góp phần làm ẩm thực Việt Nam phong phú, đa dạng.
Ẩm thực
Việt Nam
có 9 đặc trưng:
- Tính hoà đồng hay đa dạng
- Tính ít mỡ.
- Tính đậm đà hương vị
- Tính tổng hoà nhiều chất, nhiều vị.
- Tính ngon và lành
- Tính dùng đũa.
- Tính cộng đồng hay tính tập thể
- Tính hiếu khách
- Tính dọn thành mâm.
Về các món ăn , từ rất sớm người Việt đã ăn
gạo nếp là chính và đã tạo ra được những món ăn đậm đà tính dân tộc , còn tồn
tại tới ngày nay.
Ẩm thực
miền Bắc
Ẩm thực
miền Bắc thường không đậm các vị cay, béo, ngọt
bằng các vùng khác, chủ yếu sử dụng nước mắm loãng, mắm
tôm. Sử dụng nhiều món rau và các loại thủy sản nước ngọt dễ kiếm như tôm, cua, cá, trai, hến v.v. và nhìn chung, do truyền thống
xa xưa có nền nông nghiệp nghèo nàn, ẩm thực miền Bắc trước kia ít thịnh hành
các món ăn với nguyên liệu chính là thịt, cá. Nhiều người đánh giá cao Ẩm thực Hà Nội một thời, cho
rằng nó đại diện tiêu biểu nhất của tinh hoa ẩm thực miền Bắc Việt Nam với
những món phở,
bún
thang, bún chả, các món quà như cốm Vòng, bánh cuốn Thanh Trì v.v. và gia vị đặc sắc như
tinh dầu cà cuống, rau húng
Láng.
Ẩm thực
miền Nam
Ẩm thực
miền Nam, là nơi chịu ảnh hưởng nhiều của ẩm thực
Trung
Quốc, Campuchia,
Thái Lan,
có đặc điểm là thường gia thêm đường và hay sử dụng sữa dừa (nước cốt và nước dão của
dừa). Nền ẩm thực này cũng sản sinh ra vô số loại mắm khô (như mắm
cá sặc, mắm bò hóc, mắm ba khía v.v.). Ẩm thực miền Nam cũng dùng nhiều đồ hải
sản nước mặn và nước lợ hơn miền Bắc (các loại cá, tôm, cua, ốc biển), và rất
đặc biệt với những món ăn dân dã, đặc thù của một thời đi mở cõi, hiện nay
nhiều khi đã trở thành đặc sản: chuột đồng khìa nước dừa, dơi quạ
hấp chao, rắn hổ đất nấu cháo đậu xanh, đuông dừa,
đuông đất hoặc đuông chà là, vọp chong, cá lóc nướng trui v.v.
Ẩm thực
miền Trung
Đồ ăn miền Trung với tất cả tính chất đặc sắc của nó
thể hiện qua hương vị riêng biệt, nhiều món ăn cay và mặn hơn đồ ăn miền Bắc và
miền Nam, màu sắc được phối trộn phong phú, rực rỡ, thiên về màu đỏ và nâu sậm.
Các tỉnh thành miền Trung như Huế, Đà
Nẵng, Bình Định rất nổi tiếng với mắm tôm chua và các loại mắm
ruốc. Đặc biệt, do ảnh hưởng từ phong cách ẩm thực hoàng gia, ẩm thực Huế không chỉ rất
cay, nhiều màu sắc mà còn chú trọng vào số lượng các món ăn, tuy mỗi món chỉ
được bày một ít trên đĩa nhỏ.
Bữa ăn
gia đình Việt Nam
truyền thống
Người
Việt thường ăn phụ vào buổi sáng với các thức quà vặt (như các loại bánh, xôi,
cháo, phở, bún).
Một bữa ăn chính, đặc trưng của một gia đình Việt Nam diễn ra vào buổi trưa và/hoặc
buổi tối, thông thường là khi gia đình đã tụ họp đông đủ. Bữa ăn chính của
người Việt thường bao gồm một món chủ lực (cơm), một món gia vị (nước chấm) và
ba món ăn cơ bản đủ chất và cân bằng âm dương [3]:
- Một nồi cơm chung cho
cả gia đình (mỗi người có một cái bát nhỏ và đôi đũa của riêng mình)
- Một bát nhỏ đựng nước chấm (nước mắm,
tương hoặc xì dầu) cả gia đình dùng chung.
- Một món mặn có chất đạm động vật và
chất béo được luộc, rán hoặc kho như thịt, cá
- Một món rau luộc hoặc xào, hoặc rau
thơm, rau sống, dưa
muối
- Một món canh có thể đậm đà, cầu
kỳ nhưng cũng không hiếm khi chỉ đơn giản là một bát nước luộc rau
Hiện
nay, do đời sống được nâng cao hơn, cơ cấu bữa ăn chính của người Việt hiện
cũng đã cải thiện đáng kể theo hướng gia tăng các món mặn nhiều dinh dưỡng sử
dụng nguyên liệu động vật. Bên cạnh xu hướng một số vùng miền (nhất là những
vùng thôn quê) vẫn còn bày vẽ càng nhiều món trên mâm càng tốt, nhiều gia đình
thành thị lại chú trọng xu hướng tinh giản bằng cách chỉ nấu một món trọng tâm
có đủ chất đạm và các loại rau bày lên mâm, ăn kèm với các loại rau dưa lặt vặt
khác. Một số gia đình làm các món ăn đặc biệt nhân ngày chủ nhật rảnh rỗi,
những món cầu kỳ mà ngày thường ít có thời gian để làm. Bát nước chấm
"cộng đồng" nay cũng dần được nhiều gia đình, hoặc các nhà hàng cầu
kỳ san riêng ra bát cho từng người để hợp vệ sinh hơn, và có nhiều loại nước
chấm khác nhau tùy theo trong bữa có loại đồ ăn gì.
Cỗ bàn
Cỗ bàn
thường sử dụng nhiều món ăn trong đó nhấn mạnh đặc biệt các món mặn dùng nguyên
liệu động vật, loại trừ tất cả những món ăn ngày thường như rau luộc, dưa cà
v.v.
Cỗ cúng
tổ tiên
Cúng tổ
tiên (ngày giỗ chạp, ngày tết cổ truyền) thường sử dụng xôi đậu xanh, xôi gấc
với gà luộc nguyên con hoặc chân giò. Cúng người mới mất chỉ dùng xôi trắng và
một quả trứng luộc.
Cỗ Tết
Cỗ tết
truyền thống rất cầu kỳ, mâm cỗ cơ bản thường là 5 bát: bóng, miến, măng, mọc,
chim hoặc gà tần và 5 đĩa: giò, chả, gà hoặc vịt luộc, nộm, xào. Ngày nay mâm
cỗ tết đã có nhiều thay đổi về thực đơn theo xu hướng tinh giản, chú trọng
"chơi" hơn "ăn".
Miền
Bắc
|
Miền
Trung
|
Miền
|
|
Cỗ cưới
hỏi
Một mâm cỗ nông thôn trong lễ ăn hỏi
Đám ăn hỏi
thường sử dụng đồ ăn như lợn sữa quay nguyên con, gà
luộc đặt trên mâm xôi (thường là xôi màu đỏ), bánh xu xê, bánh cốm, mứt sen,
chè, rượu, trầu cau. Thường lễ vật được làm theo số lượng chẵn và đặt trên các
mâm hoặc tráp theo số lẻ. Tiệc cưới có thực đơn tương tự các
bữa tiệc khác, thường phổ biến là thực đơn khoảng 10 món với một món ăn khai vị
(xúp), một món cơm gạo ngon, một món xôi (thường là xôi đỏ như xôi gấc, xôi lá
cẩm), một món canh, một món cá, hai món thịt, một món rau xào nấu, một món nộm,
một món tráng miệng.
Bánh Chưng
Bánh chưng là một loại bánh truyền thống của dân tộc Việt nhằm thể hiện lòng biết ơn của con cháu
đối với cha ông và đất trời xứ sở. Nguyên liệu làm bánh bao gồm gạo nếp, đậu
xanh, thịt lợn,
lá dong
và bánh thường được làm vào các dịp Tết cổ truyền của
dân tộc Việt, cũng như ngày giổ tổ Hùng
Vương) (mùng 10 tháng 3 âm
lịch).
Là loại
bánh duy nhất có lịch sử lâu đời trong ẩm thực truyền thống Việt Nam còn được
sử sách nhắc lại, bánh chưng có vị trí đặc biệt trong tâm thức của cộng đồng người
Việt và nguồn gốc của nó có thể truy nguyên về truyền thuyết liên quan đến
hoàng tử Lang
Liêu vào đời vua Hùng thứ 6. Sự tích trên muốn nhắc nhở con cháu về
truyền thống của dân tộc; là lời giải thích ý nghĩa cũng như nguồn cội của của
Bánh Chưng, Bánh Giầy trong văn hóa, đồng thời nhấn mạnh tầm quan trọng của cây
lúa và thiên
nhiên trong nền văn hoá lúa nước.
Theo
quan niệm phổ biến hiện nay, cùng với bánh
giầy, bánh chưng tượng trưng cho quan niệm về vũ trụ của người Việt xưa. Bánh có màu xanh
lá cây, hình vuông, được coi là đặc trưng cho đất trong tín ngưỡng của người Việt cổ và các dân tộc khác trong
khu vực châu
Á. Tuy nhiên, theo Giáo sư Trần Quốc Vượng, bánh chưng nguyên thủy có hình
tròn và dài, giống như bánh tét, [đồng thời bánh chưng và bánh giầy tượng trưng
cho nam và nữ trong tín ngưỡng phồn thực
Việt Nam. Bánh tét, thay thế vị trí của bánh chưng vào các dịp Tết trong cộng
đồng người Việt ở miền nam Việt Nam, theo Trần Quốc Vượng là dạng nguyên thủy của bánh chưng.
Gói và
nấu bánh chưng, ngồi canh nồi bánh chưng trên bếp lửa đã trở thành một tập
quán, văn hóa sống trong các gia đình người Việt mỗi dịp tết đến xuân về.
BÁNH CHƯNG DÀI
Một số
vùng, trong đó có Phú Thọ - vùng trung du đất Tổ của các vua Hùng,
không thịnh hành gói bánh chưng hình vuông mà gói dạng tròn dài, gọi là
"bánh chưng dài", hay "bánh tày". Bánh tày còn là loại bánh
Tết ở Kinh
Bắc và tại nhiều vùng dân tộc thiểu số miền Bắc Việt Nam .
Bánh
chưng dài thường được gói với rất ít đỗ, và rất ít hoặc không có thịt, mục đích
để dành ăn lâu dài vào những ngày sau tết, xắt thành từng lát bánh rán vàng
giòn hơn và ăn ngon hơn. Bánh chưng dài có thể dùng lá chuối, lá chít thay cho lá dong, với 2 đến 4 lá
xếp theo chiều dọc, rải gạo, đỗ theo chiều của lá và quấn bằng lạt giang đã
được nối bằng phương thức đặc biệt để bó chặt chiếc bánh.
Cũng
thường thấy một kiểu bánh chưng khác, bánh chưng ngọt, không sử dụng thịt trong
nhân bánh, đường trắng được trộn đều vào
gạo và đỗ. Một số vùng khi thực hiện bánh chưng ngọt còn trộn gạo với gấc, cho màu đỏ
đẹp. Khi gói bánh chưng ngọt thường người ta không quay mặt xanh của lá dong
vào trong.
BÁNH GIẦY
Bánh giầy (có người viết là bánh dầy
hay thậm chí bánh dày) là một
loại bánh truyền thống của dân tộc
Việt nhằm thể hiện lòng biết ơn của con cháu đối với cha ông và đất trời xứ sở.
Bánh thường được làm bằng xôi đã được giã thật mịn, có thể có nhân đậu
xanh và sợi dừa
với vị ngọt hoặc mặn.
Bánh có
thể được làm vào các dịp Tết cổ truyền của dân tộc Việt và vào ngày mùng 10 tháng 3 âm
lịch (ngày giổ tổ Vua
Hùng).
Cùng
với bánh chưng, bánh giầy có thể tượng trưng cho quan niệm
về vũ trụ của người Việt xưa. Nó có màu trắng, hình
tròn, được coi là đặc trưng cho bầu trời trong tín ngưỡng của người Việt. Tuy nhiên, Trần Quốc Vượng nói rằng bánh chưng và bánh giầy
tượng trưng cho dương vật và âm hộ
trong tín ngưỡng phồn thực
Việt Nam.
Các dân
tộc thiểu số phía Bắc Việt Nam ,
như H'Mong, Dao,
Mường cũng có bánh dày; tuy rằng họ không gói bánh
chưng. Thay cho bánh chưng, họ gói bánh ú hay bánh
tét, loại bánh hình tròn dài, mà theo giải thích của Trần Quốc Vượng là phù hợp với quan niệm tín ngưỡng
phồn thực.
Bánh
giầy có liên quan đến truyền thuyết Lang Liêu,
xảy ra vào đời vua Hùng thứ 6. Trong đó vị hoàng tử Lang Liêu đã được báo mộng
để làm ra chiếc bánh giầy hình tròn, tượng trưng cho trời, còn bánh chưng hình
vuông tượng trưng cho đất, dùng để dâng cho vua cha trong ngày đầu xuân. Sự
tích trên muốn nhắc nhở con cháu về:
- Truyền thống của dân tộc.
- Giải thích ý nghĩa của bánh chưng,
bánh giầy.
- Tầm quan trọng của cây lúa và thiên
nhiên trong nền văn hoá lúa nước...
Cách làm
Người
ta chọn loại gạo nếp ngon, đồ kỹ (có thể đồ hai lượt), rồi giã trong cối tới
khi có được một khối bột nếp chín dẻo quánh. Đây là công việc đòi hỏi sức vóc,
thường chỉ nam thanh niên làm vì bột nếp chín đặc biệt dính và quánh, việc nhấc
chày lên cũng không đơn giản. Nếu giã không nhuyễn hẳn ăn còn hạt gạo sẽ mất
ngon, dễ bị "lại" bánh. Thường thường người ta có thể dùng chút mỡ
lau vào đầu chày giã cho đỡ bị bết dính, nhưng óc lợn hấp chín được sử dụng cho mục
đích này nhiều hơn.
Bánh
dày loại phổ biến nhất là loại bánh dày trắng không nhân, nhỏ bằng lòng bàn
tay, nặn hình tròn dày chừng 1 đến 2 cm. Cứ 2
cái bánh thì thành một cặp. Người mua có thể chọn mua một cái hay cả cặp và
thường kẹp ăn chung với giò
lụa, giò bò, chả quế, ruốc...
Có một
địa danh gắn liền với bánh dày, đó là bánh dày Quán Gánh (trên đường từ Hà Nội
đi Hải Dương). Khi đi qua địa danh giáp Hà Nội này, người ta
thường gặp nhiều sạp bán bánh dày Quán Gánh. Loại bánh này thường bán thành một
cọc gồm 5 bánh, nhân mặn hoặc nhân ngọt, gói trong lá chuối tươi.
Với
loại bánh dày của người vùng cao thì khác. Bánh được chế biến cùng cách kể trên
mỗi dịp Tết, song được nặn to như cái bánh đa.
Bánh được trữ trên gác bếp, để khô cả năm trời và là món ăn quý. Mỗi khi dùng,
người ta xắt bánh ra thành miếng nhỏ, rồi nướng phồng trên bếp than như bánh tổ.
PHỞ
Phở là một món ăn truyền thống của
Việt Nam , cũng có thể xem là
một trong những món ăn đặc trưng nhất cho ẩm thực Việt Nam.
Phở sử dụng
nguyên liệu chính là bánh phở màu trắng thái sợi bản, làm từ gạo, là một trong
nhiều món ăn Việt Nam dạng mì nước. Phở thường được coi là món "quốc hồn
quốc túy" của Việt Nam .
Đây là món giàu dinh dưỡng, nước dùng rất trong được ninh bằng các loại xương
và hương liệu (gừng nướng, củ hành khô nướng, quế, hồi, thảo quả v.v.) với
những bí quyết riêng trong nhiều giờ. Phở thường được sắp đặt trong bát lớn với
thịt bày lên trên cùng với một số loại rau gia vị tùy vùng (như vài lát hành
tây, giá đỗ, hành ta và rau húng thơm xắt nhỏ). Bày bánh phở đã chần vào bát,
bày thịt lên trên, trút nước dùng nóng vào và rắc ít hành, ngò. Bên cạnh bát
phở cho thực khách là bát đựng vài miếng chanh tươi, dăm cọng rau thơm, chút
tương ớt, bột tiêu. Phở có nhiều thương hiệu, ở miền Bắc Việt Nam rất nổi tiếng là các thương hiệu phở Phở Hà Nội và các cửa hàng phở Nam Định. Nhiều nhà kinh doanh cũng bắt đầu tạo
những thương hiệu phở đặc biệt như Phở 24, Phở Cali xuất khẩu ra ngoại quốc.
Các món phở chính thường thấy:
- Phở chín: sử dụng thịt đã luộc thật
chín.
- Phở tái chần: những lát thịt được chần
tái trước, sau đó được làm chín thêm bằng nước dùng chan vào bát (có nhiều
dạng tái gầu, tái nạm v.v).
- Phở tái lăn: cho thịt và các loại rau
gia vị vào chảo mỡ thật nóng, đảo nhanh trước khi trút lên bát phở.
- Phở xào: bánh phở xào mềm hoặc xào
giòn cùng với các loại rau, thịt, trút ra đĩa.
- Phở cuốn: bánh phở không thái,
để bản to và cuộn các loại thịt, rau, chấm nước mắm pha chua ngọt dịu. Món
phở cuốn, như một sự cách tân phở truyền thống, đang rất thịnh hành ở Hà
Nội.
4, CHỮ VIẾT
Buổi đầu người Việt chưa
có chữ viết về sau mới có chữ Nôm dựa trên tự dạng chữ Hán . Cho tới thế kỉ 18
mới có chữ quốc ngữ và nay đã trở thành chữ viết chung cho nhiều dân tộc trong
nước
Về chữ viết, trong một thời gian dài
dưới thời Bắc thuộc, Việt Nam sử dụng chữ Hán (của Trung Quốc) trong giao dịch,
giáo dục, trong các văn bản của nhà nước phong kiến. Việc sử dụng chữ Hán còn
kéo dài đến đầu thế kỷ 20. Đến thế kỷ thứ 10, song song với việc sử dụng chữ
Hán, người Việt Nam
đã sáng tạo ra chữ Nôm (dùng đặc tính tượng hình của chữ Hán để ký âm tiếng
Việt). Sự xuất hiện của chữ Nôm (có thể) đánh dấu sự trưởng thành trong ý thức
dân tộc của người Việt và giúp cho nền văn học Việt Nam phát triển rực rỡ. Đến thế kỷ
16, chữ Quốc ngữ xuất hiện sau đó thay thế cả chữ Hán và chữ Nôm.
5, NHẠC CỤ
Âm nhạc là một phần không thể thiếu
trong cuộc sống mỗi con người chúng ta. Nền âm nhạc của Việt Nam mang đậm
tính dân tộc, nó được phát triển và truyền từ đời này sang đời khác. Từ các
điệu quan họ Bắc Ninh cho tới những bài ca cổ Nam bộ, đâu đâu cũng phát triển một
nền âm nhạc riêng của từng vùng miền. Và trong nền âm nhạc nước nhà, tuy phong
phú đa dạng nhưng cũng không thể nào thiếu được sự góp mặt của các loại nhạc
cụ, một trong số đó là các loại đàn.
Đàn tranh
Đàn Tranh hình hộp dài. Khung đàn hình thang có chiều
dài 110-120 cm. Đầu lớn rộng khoảng 25-30 cm là đầu có lỗ và con chắn để mắc
dây. Đầu nhỏ rộmg khoảng 15-20 cm gắn 16 khoá lên dây chéo qua mặt đàn. Mặt đàn
làm bằng ván gỗ ngô đồng dày khoảng 0,05 cm uốn hình vòm. Ngựa đàn còn gọi là
(con Nhạn) nằm ở khoảng giữa để gác dây và có thể di chuyển để điều chỉnh âm
thanh. Dây đàn làm bằng kim loại với các cỡ dây khác nhau. Khi biểu diễn nghệ
nhân thường đeo 3 móng vào ngón cái, trỏ, giữa để gẩy. Móng gẩy làm bằng các
chất liệu khác nhau như kim loại, sừng hoặc đồi mồi.
Âm sắc Đàn Tranh trong trẻo, sáng sủa thể hiện tốt các điệu nhạc vui tươi, trong sáng.
Đàn Tranh thường được sử dụng để độc tấu, hòa tấu, đệm cho ngâm thơ, hát, tham gia trong các dàn nhạc Tài Tử, phường Bát Âm, dàn Nhã Nhạc và các dàn nhạc dân tộc tổng hợp.
Âm sắc Đàn Tranh trong trẻo, sáng sủa thể hiện tốt các điệu nhạc vui tươi, trong sáng.
Đàn Tranh thường được sử dụng để độc tấu, hòa tấu, đệm cho ngâm thơ, hát, tham gia trong các dàn nhạc Tài Tử, phường Bát Âm, dàn Nhã Nhạc và các dàn nhạc dân tộc tổng hợp.
Đàn bầu
Đàn Bầu có tên chữ là Độc Huyền Cầm, là
nhạc cụ đàn một dây của người Việt, gảy bằng que hoặc miếng gảy. Đàn có hai
loại là đàn thân tre và đàn hộp gỗ.
Đàn thân tre: là đàn của những người hát Xẩm. Thân đàn làm bằng 1 đoạn tre hoặc bương dài khoảng 120 cm, đường kính 12 cm. Mặt đàn là chỗ đã được lóc đi một phần cật thích hợp trên đoạn tre hoặc bương.
Đàn thân tre: là đàn của những người hát Xẩm. Thân đàn làm bằng 1 đoạn tre hoặc bương dài khoảng 120 cm, đường kính 12 cm. Mặt đàn là chỗ đã được lóc đi một phần cật thích hợp trên đoạn tre hoặc bương.
Đàn
hộp gỗ: là loại đàn cải
tiến sau này, dùng cho các nghệ sĩ chuyên nghiệp. Đàn hộp gỗ có nhiều hình
dáng, kích thước khác nhau. Về hình dáng và chất liệu của hộp cộng hưởng (tức
Thân đàn) của hai loại đàn có khác nhau, nhưng về cấu tạo, hai đàn hoàn toàn
giống nhau.
Dây đàn có chiều dài chạy suốt thân đàn.
Thuở xưa dây đàn làm bằng tơ tằm se thành sợi, về sau thay bằng dây sắt.
Bầu đàn làm bằng 1/2 vỏ quả bầu nậm (lấy đoạn núm thắt cổ bồng). Bầu đàn lồng vào giữa vòi đàn nơi buộc dây đàn. Bầu đàn có tác dụng tăng thêm âm lượng cho đàn. Ngày nay người ta tiện bầu đàn bằng gỗ và chỉ có tác dụng tạo dáng mà thôi.
“Cung thanh là tiếng mẹ, cung trầm là giọng cha” .Âm thanh của đàn ngọt ngào, sâu lắng tình người. Không chỉ là người ViệtNam mà bất cứ ai đã từng nghe tiếng
đàn bầu chắc hẳn đã bị cuốn hút bởi những giai điệu ngân nga, ngọt ngào, quyến
rũ đến khó quên.
Bầu đàn làm bằng 1/2 vỏ quả bầu nậm (lấy đoạn núm thắt cổ bồng). Bầu đàn lồng vào giữa vòi đàn nơi buộc dây đàn. Bầu đàn có tác dụng tăng thêm âm lượng cho đàn. Ngày nay người ta tiện bầu đàn bằng gỗ và chỉ có tác dụng tạo dáng mà thôi.
“Cung thanh là tiếng mẹ, cung trầm là giọng cha” .Âm thanh của đàn ngọt ngào, sâu lắng tình người. Không chỉ là người Việt
Ðàn Ðáy
Đây là một trong những cây đàn dài nhất do
người Việt nam chế tác vào thời Lê (thế kỷ XV-XVIII ). Ngày xưa nó còn có tên
Vô để cầm( đàn không đáy) hay có người gọi là Đới cầm…Trong lối hát Ả đào hay
ca trù ,đàn đáy lá 1 nhạc cụ duy nhất cùng với phách và trống đế.Đàn đáy rất
hợp với loại thơ cổ âm thanh nỉ non buồn mát. Với hệ thống gắn phím 7 cung chia
đều nhau, do vậy khi người hát lên cao , xuống thấp một chút thì người nghệ sỹ
không phải vặn dây lại mà chỉ cần đổi thế bấm một cách nhanh chóng.
Đàn Đáy còn có một độc đáo hơn những cây đàn gảy khác là có thể tạo nên những ngón chùn khi bấm phím(Những đàn gảy khác chỉ có nhấn cao mà thôi. Nên Đàn Đáy bắt chước giọng nói rất hay và rất đa dạng trong cách đàn.
Đàn Đáy còn có một độc đáo hơn những cây đàn gảy khác là có thể tạo nên những ngón chùn khi bấm phím(Những đàn gảy khác chỉ có nhấn cao mà thôi. Nên Đàn Đáy bắt chước giọng nói rất hay và rất đa dạng trong cách đàn.
Đàn Tỳ Bà
Tên gọi một nhạc cụ dây gẩy của người Việt. Nhiều tài liệu đã cho biết, Tỳ Bà xuất hiện rất sớm ở Trung Quốc với tên gọi PiPa, rồi ở Nhật Bản với tên gọiBiWa .
Người ta chế tác Tỳ Bà bằng gỗ Ngô Đồng. Cần đàn và thùng đàn liền nhau có dáng như hình quả lê bổ đôi. Mặt đàn bằng gỗ nhẹ, xốp, để mộc. Phía mặt cuối thân đàn có một bộ phận để mắc dây gọi là ngựa đàn. Đầu đàn (hoặc thủ đàn) cong có chạm khắc rất cầu kỳ, khi là hình chữ thọ, khi là hình con dơi. Nơi đầu đàn gắn bốn trục gỗ để lên dây.
Toàn bộ chiều dài của thân đàn có số đo từ 94 - 100 cm. Phần cần đàn có gắn 4 miếng ngà voi cong vòm lên gọi là Tứ Thiên Vương. Tám phím chính làm bằng tre hoặc gỗ gắn ở phần mặt đàn cho các cao độ khác nhau. Thuở xưa dây đàn se bằng tơ tằm rồi đem vuốt sáp ong cho mịn, ngày nay người ta thay dây tơ bằng dây nilon.
Mặc dù đàn Tỳ Bà có xuất xứ từ các nước khác, nhưng qua thời gian dài sử dụng nó đã được bản địa hóa và trở thành cây đàn của Việt Nam, thể hiện sâu sắc, đậm đà những bản nhạc mang phong cách của dân tộc Việt Nam trong lĩnh vực khí nhạc.
Tên gọi một nhạc cụ dây gẩy của người Việt. Nhiều tài liệu đã cho biết, Tỳ Bà xuất hiện rất sớm ở Trung Quốc với tên gọi PiPa, rồi ở Nhật Bản với tên gọi
Người ta chế tác Tỳ Bà bằng gỗ Ngô Đồng. Cần đàn và thùng đàn liền nhau có dáng như hình quả lê bổ đôi. Mặt đàn bằng gỗ nhẹ, xốp, để mộc. Phía mặt cuối thân đàn có một bộ phận để mắc dây gọi là ngựa đàn. Đầu đàn (hoặc thủ đàn) cong có chạm khắc rất cầu kỳ, khi là hình chữ thọ, khi là hình con dơi. Nơi đầu đàn gắn bốn trục gỗ để lên dây.
Toàn bộ chiều dài của thân đàn có số đo từ 94 - 100 cm. Phần cần đàn có gắn 4 miếng ngà voi cong vòm lên gọi là Tứ Thiên Vương. Tám phím chính làm bằng tre hoặc gỗ gắn ở phần mặt đàn cho các cao độ khác nhau. Thuở xưa dây đàn se bằng tơ tằm rồi đem vuốt sáp ong cho mịn, ngày nay người ta thay dây tơ bằng dây nilon.
Mặc dù đàn Tỳ Bà có xuất xứ từ các nước khác, nhưng qua thời gian dài sử dụng nó đã được bản địa hóa và trở thành cây đàn của Việt Nam, thể hiện sâu sắc, đậm đà những bản nhạc mang phong cách của dân tộc Việt Nam trong lĩnh vực khí nhạc.
Đàn nguyệt
Hay còn gọi là đàn Kìm, được sử dụng rộng rãi trong dòng nhạc dân gian cũng như cung đình bác học cổ truyền của người Việt. Xuất hiện trong mỹ thuật ViệtNam từ thế kỷ XI, cho tới nay nó
vẫn giữ một vị trí rất quan trọng trong sinh hoạt âm nhạc của người Việt và là
nhạc cụ chủ yếu dành cho nam giới.
Nhờ có cần tương đối dài và những phím cao, nhạc công có thể tạo được những âm nhấn nhá uyển chuyển, mềm mại.
Tiếng đàn trong, vang, khả năng biểu hiện phong phú- khi thì sôi nổi ròn rã, lúc lại nỉ non sâu lắng, do đó đàn nguyệt có mặt cả trong những cuộc hoà tấu nhạc lễ trang nghiêm, những cuộc hát văn lôi cuốn, những lễ tang bùi ngùi xúc động cũng như những cuộc hoà tấu thính phòng thanh nhã với những hình thức diễn tấu khác nhau: đệm cho hát, hoà tấu và độc tấu.
Hay còn gọi là đàn Kìm, được sử dụng rộng rãi trong dòng nhạc dân gian cũng như cung đình bác học cổ truyền của người Việt. Xuất hiện trong mỹ thuật Việt
Nhờ có cần tương đối dài và những phím cao, nhạc công có thể tạo được những âm nhấn nhá uyển chuyển, mềm mại.
Tiếng đàn trong, vang, khả năng biểu hiện phong phú- khi thì sôi nổi ròn rã, lúc lại nỉ non sâu lắng, do đó đàn nguyệt có mặt cả trong những cuộc hoà tấu nhạc lễ trang nghiêm, những cuộc hát văn lôi cuốn, những lễ tang bùi ngùi xúc động cũng như những cuộc hoà tấu thính phòng thanh nhã với những hình thức diễn tấu khác nhau: đệm cho hát, hoà tấu và độc tấu.
Cây đờn cò (nhị)
Đã có mặt trong nền âm nhạc truyền thống
Việt Nam từ lâu đời, đã trở nên thân quen và gần gũi với mọi người dân Việt Nam , nó được
trân trọng quí báu như cổ vật gia bảo. Đờn cò đóng góp một vai trò vô cùng quan
trọng và đắc lực không thể thiếu trong các dàn nhạc dân tộc Việt Nam ta
từ xưa đến nay.
Người dân Nam bộ gọi là “đàn cò” vì hình dáng giống như con cò, trục dây có đầu quặp xuống như mỏ cò- Cần đờn như cổ cò - thân đờn như con cò - tiến đờn nghe lảnh lót như tiếng cò. Trong các dàn nhạc phường bát âm, ngũ âm, nhã nhạc, chầu văn, sắc bùa, nhặc tài tử, cải lương dàn nhạc dân tộc tổng hợp, dân ca… đều có đờn cò.Ngày nay đàn nhị có mặt hầu hết trong các dàn nhạc Việt nam, các trung tâm băng nhạc ngày nay cũng khai thác âm thanh đàn nhị trong những nhạc phẩm về quê hương hay những ca khúc buồn.
Người dân Nam bộ gọi là “đàn cò” vì hình dáng giống như con cò, trục dây có đầu quặp xuống như mỏ cò- Cần đờn như cổ cò - thân đờn như con cò - tiến đờn nghe lảnh lót như tiếng cò. Trong các dàn nhạc phường bát âm, ngũ âm, nhã nhạc, chầu văn, sắc bùa, nhặc tài tử, cải lương dàn nhạc dân tộc tổng hợp, dân ca… đều có đờn cò.Ngày nay đàn nhị có mặt hầu hết trong các dàn nhạc Việt nam, các trung tâm băng nhạc ngày nay cũng khai thác âm thanh đàn nhị trong những nhạc phẩm về quê hương hay những ca khúc buồn.
Tam thâp lục
Là nhạc khí dây, chi gõ của dân tộc Việt.
Đàn có 36 dây nên được gọi là Tam Thập Lục.
Đàn Tam thập lục hình thang cân, mặt đàn hơi phồng lên ở giữa, làm bằng gỗ nhẹ, xốp, để mộc. Cầu đàn, thành đàn làm bằng gỗ cứng, trên mặt đàn đặt so le hai hàng ngựa, mỗi hàng 18 ngựa. Cần đàn bên trái có 36 móc để mắc dây, bên phải có 36 trục để lên dây. Dây đàn làm bằng kim khí. Que đàn được làm bằng hai thanh tre mỏng, dẻo, ở đầu được quấn dạ để tiếng đàn được êm. Âm thanh đàn Tam thập lục trong sáng, thánh thót, rộn rã.
Khi biểu diễn nhạc công dùng 2 que gõ vào mặt đàn tạo ra các ngón như: Ngón rung, ngón vê, ngón bịt, ngón á, đánh cồng âm, hợp âm… Đàn Tam thập lục giữ vai trò quan trọng trong các dàn nhạc sân khấu chèo, cải lương. Đàn đệm cho hát, độc tấu, tham gia dàn nhạc dân tộc tổng hợp.
Đàn Tam thập lục hình thang cân, mặt đàn hơi phồng lên ở giữa, làm bằng gỗ nhẹ, xốp, để mộc. Cầu đàn, thành đàn làm bằng gỗ cứng, trên mặt đàn đặt so le hai hàng ngựa, mỗi hàng 18 ngựa. Cần đàn bên trái có 36 móc để mắc dây, bên phải có 36 trục để lên dây. Dây đàn làm bằng kim khí. Que đàn được làm bằng hai thanh tre mỏng, dẻo, ở đầu được quấn dạ để tiếng đàn được êm. Âm thanh đàn Tam thập lục trong sáng, thánh thót, rộn rã.
Khi biểu diễn nhạc công dùng 2 que gõ vào mặt đàn tạo ra các ngón như: Ngón rung, ngón vê, ngón bịt, ngón á, đánh cồng âm, hợp âm… Đàn Tam thập lục giữ vai trò quan trọng trong các dàn nhạc sân khấu chèo, cải lương. Đàn đệm cho hát, độc tấu, tham gia dàn nhạc dân tộc tổng hợp.
Đàn tam
Là nhạc cụ Việt Nam có 3 dây (tam là ba). Trước đây
người ta thường dùng nhạc cụ này trong dàn nhạc bát âm, ngày nay phần lớn các
dàn nhạc đều có đàn tam với đủ loại kích cỡ, từ nhỏ, vừa đến lớn và cả loại đàn
tam âm trầm, hòa điệu với những nhạc cụ âm trầm khác trong dàn nhạc.
Đàn tam có âm sắc không giống các đàn khảy dây khác như đàn tỳ bà, đàn nguyệt hay đàn tứ. Điều này có lẻ chịu ảnh hưởng phần nào bởi mặt bầu vang bịt da trăn. Đàn tam có màu âm vang, ấm, sáng sủa, thích hợp rộn rã. Tuy nhiên khi ở quãng thấp âm sắc đàn tam hơi đục, dùng để thể hiện những giai điệu trầm hùng, khỏe khoắn.
Đàn tam có âm sắc không giống các đàn khảy dây khác như đàn tỳ bà, đàn nguyệt hay đàn tứ. Điều này có lẻ chịu ảnh hưởng phần nào bởi mặt bầu vang bịt da trăn. Đàn tam có màu âm vang, ấm, sáng sủa, thích hợp rộn rã. Tuy nhiên khi ở quãng thấp âm sắc đàn tam hơi đục, dùng để thể hiện những giai điệu trầm hùng, khỏe khoắn.
Đàn Sến
Đàn Sến là nhạc khí dây gảy loại có dọc
(cần đàn), một số các nước khác ở Châu Á cũng có. Ðàn Sến được nhập vào Việt Nam và trở thành đàn Việt Nam . Đàn Sến là nhạc khí khá phổ
biến trong Dân tộc Việt, đặc biệt là ở miền Nam .
Màu âm Ðàn Sến trong trẻo, tươi sáng gần với Ðàn Nguyệt nhưng ít ngân vang hơn. Đàn Sến thường được sử dụng trong Dàn nhạc Sân khấu Tuồng, Cải Lương.
Màu âm Ðàn Sến trong trẻo, tươi sáng gần với Ðàn Nguyệt nhưng ít ngân vang hơn. Đàn Sến thường được sử dụng trong Dàn nhạc Sân khấu Tuồng, Cải Lương.
Đàn Gáo
Hay đàn Hồ là nhạc khí dây kéo (cung vĩ)
phát triển từ Ðàn Nhị, to và dài hơn Ðàn Cò(Nhị) khá giống như Ðàn Hồ Cầm của
Trung Quốc về tính năng. Hình dáng Ðàn Gáo được khắc trên bệ đá kê chân cột
Chùa Phật Tích, ở miền Bắc người ta gọi là Ðàn Hồ. Theo GS Tô Vũ: “Gáo” và “Cò”
là sáng tạo ngôn ngữ có tính cách dân gian ở Nam Bộ, để chỉ cây Nhị và Hồ ở
miền Bắc và miền Trung, mà từ nguyên dễ khiến người ta liên hệ đến tính cách du
nhập của những nhạc khí đó. Ðàn Gáo ở miền Nam người ta lấy nửa gáo dừa to,
bịt mặt gỗ làm bầu đàn nên gọi là Ðàn Gáo.
Đàn Cò Gáo là nhạc khí dây kéo (cung vĩ), là một cải biên của ViệtNam từ loại Nhị Hồ (Trung Quốc) được nhập vào
Việt Nam và trở thành đàn
Việt Nam .
Đàn Gáo (đàn Hồ tiểu) có màu âm trầm hơn đàn Cò lòn, đầy đặn, rộng rãi chắc chắn hơn. Màu âm Ðàn Hồ đẹp, ấm hơi trầm phù hợp với tình cảm sâu lắng.
Đàn Gáo (Ðàn Hồ) tham gia trong Dàn Nhã nhạc, Phường Bát âm, Dàn nhạc Sân khấu Tuồng, Chèo. Ðàn Gáo giữ vai trò quan trọng trong ban nhạc Xẩm, đệm cho các giọng thổ (trung, trầm). Ðàn Gáo (Ðàn Hồ) không thấy có mặt trong các biên chế Dàn nhạc Cung đình ngày trước, cũng như trong Dàn nhạc Tài tử miền Nam, đó là điểm duy nhất mà nó khác với Ðàn Cò. Nhưng nói chung Ðàn Gáo luôn cặp kè chung với Cò (Nhị) trong các Dàn nhạc Sân khấu cổ truyền, Cải lương và trong phe văn Dàn nhạc Lễ.
Đàn Cò Gáo là nhạc khí dây kéo (cung vĩ), là một cải biên của Việt
Đàn Gáo (đàn Hồ tiểu) có màu âm trầm hơn đàn Cò lòn, đầy đặn, rộng rãi chắc chắn hơn. Màu âm Ðàn Hồ đẹp, ấm hơi trầm phù hợp với tình cảm sâu lắng.
Đàn Gáo (Ðàn Hồ) tham gia trong Dàn Nhã nhạc, Phường Bát âm, Dàn nhạc Sân khấu Tuồng, Chèo. Ðàn Gáo giữ vai trò quan trọng trong ban nhạc Xẩm, đệm cho các giọng thổ (trung, trầm). Ðàn Gáo (Ðàn Hồ) không thấy có mặt trong các biên chế Dàn nhạc Cung đình ngày trước, cũng như trong Dàn nhạc Tài tử miền Nam, đó là điểm duy nhất mà nó khác với Ðàn Cò. Nhưng nói chung Ðàn Gáo luôn cặp kè chung với Cò (Nhị) trong các Dàn nhạc Sân khấu cổ truyền, Cải lương và trong phe văn Dàn nhạc Lễ.
Đàn Ðoản
Là nhạc khí truyền thống của Dân tộc Việt
và một số dân tộc ít người ở miền Bắc Việt Nam . Tương tự với Ðàn Ðoản, người
H’ Mông có Thà Chìn, người Lô Lô có Gièn Xìn, hộp đàn mỏng hơn, có vẽ hoa và
khoét lỗ thoát âm.
Đàn Ðoản là nhạc khí dây gảy loại có dọc (cần đàn) một số nước khác ở Châu Á cũng có, Ðàn Ðoản được nhập vào ViệtNam
và trở thành đàn Việt Nam .
(còn gọi là đàn nhật, tức đàn Mặt Trời), loại đàn có 4 dây bằng tơ (2 âm giống nhau); ở Nam Bộ gọi là đàn đoản vì cán đàn ngắn. Được xếp phím theo hệ thống 7 âm chia đều, cho nên khi đánh theo điệu thức 12 bình quân, cần phải nhấn mới đạt được cao độ theo ý muốn. Âm thanh giòn, khoẻ, vang, thích hợp với giai điệu vui, hoạt bát, dí dỏm. Đàn Tứ trước đây có mặt trong các dàn nhạc bát âm, tuồng, cải lương (ít dùng trong chèo).
Đàn Ðoản thường được sử dụng tham gia trong Phường Bát âm, Dàn nhạc Sân khấu Tuồng, Cải Lương, ngày nay Ðàn Tứ đã được đưa vào Dàn nhạc Dân tộc Tổng hợp hoà tấu.
Đàn Ðoản là nhạc khí dây gảy loại có dọc (cần đàn) một số nước khác ở Châu Á cũng có, Ðàn Ðoản được nhập vào Việt
(còn gọi là đàn nhật, tức đàn Mặt Trời), loại đàn có 4 dây bằng tơ (2 âm giống nhau); ở Nam Bộ gọi là đàn đoản vì cán đàn ngắn. Được xếp phím theo hệ thống 7 âm chia đều, cho nên khi đánh theo điệu thức 12 bình quân, cần phải nhấn mới đạt được cao độ theo ý muốn. Âm thanh giòn, khoẻ, vang, thích hợp với giai điệu vui, hoạt bát, dí dỏm. Đàn Tứ trước đây có mặt trong các dàn nhạc bát âm, tuồng, cải lương (ít dùng trong chèo).
Đàn Ðoản thường được sử dụng tham gia trong Phường Bát âm, Dàn nhạc Sân khấu Tuồng, Cải Lương, ngày nay Ðàn Tứ đã được đưa vào Dàn nhạc Dân tộc Tổng hợp hoà tấu.
IV . VĂN HÓA TINH THẦN
Người Việt có một kho tàng văn hóa dân gian vô cùng phong phú . Nền văn
học hành văn ra đời muộn hơn , nhưng đã có tác phẩm đạt đến đỉnh cao như Truyện
Kiều sẽ tồn tại mãi với thời gian , với lịch sử dân tộc . Về tôn giáo tín
ngưỡng , ngoài tín ngưỡng nguyên thủy , người Việt còn có tục thờ cúng tổ tiên
từ rất sớm và đặc biệt là tôn thờ những vị anh hùng dân tộc và vị tổ chung là các vị vua Hùng .
Bên cạnh tín ngưỡng nguyên thủy , đã tiếp thu đạo Phật , Lão , Nho giáo và sau
này là một vài tôn giáo khác . Các nghệ
thuật khác như : ca hát , âm nhạc , hội họa … đều có từ lâu và có những
thành tựu lớn . Nhiều lễ hội lớn và có giá trị dân tộc như :
A, HỘI
1. Lễ hội
Đền Hùng
Dù ai đi
ngược về xuôi
Nhớ ngày
giỗ tổ mùng mười tháng ba
Lễ hội đền Hùng còn gọi là Giỗ tổ Hùng Vương là một lễ hội lớn mang tầm vóc quốc gia ở Việt Nam, tưởng nhớ và tỏ lòng biết ơn công lao lập nước của
các vua Hùng, những vị vua đầu tiên của dân
tộc. Lễ hội diễn ra vào ngày 10 tháng 3 âm lịch, tuy nhiên, lễ hội thực chất đã diễn ra từ hàng tuần
trước đó với những phong tục như đâm đuống (đánh trống đồng) của dân tộc Mường, hành hương tưởng
niệm các vua Hùng, và kết thúc vào ngày 10 tháng 3 âm lịch với lễ rước kiệu và
dâng hương trên Đền Thượng. Lễ hội Đền Hùng hiện được Nhà nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam nâng lên thành quốc giỗ tổ chức lớn
vào những năm chẵn.
Có 2 lễ được cử hành cùng thời điểm ngày chính hội:
Lễ rước kiệu vua: Đám rước kiệu với màu sắc sặc sỡ của bạt ngàn
cờ, hoa, lọng, kiệu, trang phục truyền thống xuất phát từ dưới chân núi rồi lần
lượt qua các đền để tới đền Thượng, nơi làm lễ dâng hương. Đám rước như một con
rồng uốn lượn trên những bậc đá dưới những tán lá cây để tới đỉnh núi Thiêng.
Lễ dâng hương: Người hành hương tới đền Hùng chủ yếu vì nhu cầu
của đời sống tâm linh. Mỗi người đều thắp lên vài nén hương khi tới đất Tổ để
nhờ làn khói thơm nói hộ những điều tâm niệm của mình với tổ tiên. Trong tâm
hồn người Việt thì mỗi nắm đất, gốc cây nơi đây đều linh thiêng và chẳng có gì
khó hiểu khi nhìn thấy những gốc cây, hốc đá cắm đỏ những chân hương.
Phần hội có nhiều trò chơi dân gian đặc sắc. Đó là những cuộc thi hát xoan (tức hát ghẹo), một
hình thức dân ca đặc biệt của Vĩnh Phú, những cuộc thi vật, thi kéo co,
hay thi bơi trải ở ngã ba sông Bạch Hạc, nơi
các vua Hùng luyện tập các đoàn thủy binh
luyện chiến.
Từ năm 2007, giỗ tổ Hùng Vương trở thành quốc lễ. Ngày 10/3 âm
lịch hàng năm là ngày nghỉ lễ. Lê hội đền Hùng những năm lẻ sẽ do tỉnh Phú Thọ đứng ra tổ chức. Các năm chẵn sẽ có quy mô ở các cấp lớn
hơn. Lễ hội đền Hùng không chỉ diễn ra ở khu di tích lịch sử đền Hùng Phú Thọ mà sẽ diễn ra ở nhiều địa phương trong cả nước như thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Đà Nẵng .v.v
2. Hội Lim
Xứ Kinh Bắc
xưa nổi tiếng là vùng đất của những câu chuyện cổ, những sự tích văn hoá. Vì
truyền thống này mà nơi đây sở hữu nhiều lễ hội dân gian. Lễ hội được nhiều
người quan tâm nhất là Hội Lim tại thị trấn Lim, Tiên Du, Bắc Ninh.
Có giả thuyết cho rằng hội Lim
có nguồn gốc từ hội chùa, hội hát, liên quan đến tiếng hát của chàng Trương Chi
trong truyền thuyết Trương Chi - Mỵ Nương mà dấu xưa để lại là hình vết dòng
sông Tiêu Tương khá rõ ở các làng quê vùng Lim.
Hội Lim là một sinh hoạt văn hoá
- nghệ thuật đặc sắc của nền văn hoá truyền thống lâu đời
ở xứ Bắc và dân ca Quan họ trở thành tài sản văn hoá chung của dân tộc Việt, tiêu biểu cho loại hình dân ca trữ tình Bắc
Bộ.
Lâu nay người ta có ấn tượng
rằng ngày hội Lim là ngày hội cả của quan họ, là ngày hội tiêu biểu của sinh
hoạt quan họ, vì :
* Hội Lim mở vào ngày 13 tháng Giêng, âm lịch,
trùng với ngày hội chợ đầu năm.
* Ngày 12 tháng Giêng là ngày hội đình của 6
làng xung quanh vùng Lim, nên không khí náo nức của hội đình chuyển ngay cho hội
chùa Lim.
*
Lúc này là thời gian tốt nhất để
mở hội, vì trời có trăng, một số hội đã mở lấy đà, mọi người vừa ăn tết xong,
công việc đồng áng, buôn bán đang rỗi rãi, giao thông thuận lợi …
Làng Lim có bốn xóm. Mỗi xóm có hai
“bọn” Quan họ: một bọn nam, một bọn nữ. Có tục “ăn chạ” với Tam Sơn, tục kết
nghĩa với Bịu.
Hội Lim là ngày hội chùa của làng Lim.
Hội chỉ mở một ngày, đó là ngày 13 tháng Giêng âm lịch. Từ trước Tết, người ta
đã chuẩn bị cho ngày hội đó. Suốt tháng một, tháng Chạp, các bọn quan họ tập
luyện. Bọn này mời bọn kia đến hát đối đáp thử. Ra giêng, từ mùng 4, mùng 5,
từng bọn nhận lời mời của các thôn bạn rủ nhau đi hát để tập dượt, thử thách.
Qua việc đi hát, các bọn đi hát cũng mời bọn hát tốt về dự hội làng mình. Nhưng
việc mời chính thức “ bọn ” nào đến dự hội, còn phải qua một cuộc hội ý giữa
các ông Trùm, bà Trùm. Dĩ nhiên đối với hội Lim thì không thể thiếu các bọn
quan họ Bịu và Tam Sơn, vì đó là quan họ kết chạ và kết nghĩa. Số bọn tới dự
lại không thể quá số bọn Quan họ của Lim. Chẳng hạn Lim có 4 bọn nam thì số tối
đa bọn nữ các nơi được mời đến chỉ có thể là 4 mà thôi, vì nếu không thế thì
các “bọn” thứ 5, thứ 6 … sẽ không ai tiếp.
Trong hội Lim có 2 hình thức tổ chức
hát:
Một là hát trong nhà, của những bọn
có kết nghĩa. Hai là hát ngoài đồi của những bọn đến xem hội, góp vui và tìm
bạn.
Hát trong
nhà:
- Phía chủ: Các bọn Quan họ
Lim đều đã góp tiền cho ông Trùm ( bà Trùm ) và cử người chịu trách nhiệm đăng
cai. Gia dình đăng cai làm “cơm Quan họ” và sửa soạn chỗ hát. Mờ sáng, các anh
các chị quan họ đã đến đấy giúp gia chủ chuẩn bị các thứ, têm trầu, làm thịt
gà, đồ xôi…Trong khi đó cho một số anh em ra chùa chờ khách. Khi khách đến, các
em về báo, anh chị Quan họ mời lên chùa đón khách.
- Phía khách: từng bọn Quan
họ ăn mặc lễ phục ngày hội, đi thành nhóm, tiến thẳng tới chùa Lim. Đến chùa,
họ đi loanh quanh xem hội, chờ đến lúc có bạn mời vào lễ Phật, cả bọn vào hát
lễ Phật. Xong, họ được bạn đón luôn về nơi chuẩn bị mọi điều kiện cho cuộc hát
Quan họ.
Buổi hát quan họ bắt đầu rất tự
nhiên: Quan họ bạn vào đến cổng , cất tiếng hát mừng làng đầu năm, hát mừng nhà,
mừng bạn.
Quan họ chủ đứng giữa sân hát “đón nhời” : chúc lại làng bạn và
chào bạn.
Quan họ chủ đỡ nón, ô cho Quan họ
bạn,đón bạn vào ngồi một giường (nếu là bố trí ngồi hai giường hát đối đáp)
hoặc ngồi một bên tràng kỷ (nếu là bố trí hát đối đáp đôi bên qua chiếc bàn).
Quan họ chủ lúc này cũng ngồi vào một giường hoặc phía tràng kỷ bên kia.
Quan họ chủ hát mời bạn xơi trầu.
Quan họ chủ hát mời bạn uống nước.
Quan họ bạn hát đáp và hát cảm ơn bạn
đã tổ chức đón tiếp thịnh tình.
Hầu như mọi hành động, mọi tình tiết
đều lấy cấu hát làm đầu, chỉ có khi lời ca chưa nói được rõ ý mình, hoặc cần
nhấn mạnh thêm điều gì nữa thì hai bên mới nói đệm vào câu hát.
Hát cho đến trưa thì cỗ bàn cũng vừa
xong…Quan họ chủ hát mời Quan họ ăn cơm. Quan họ bạn hát cảm ơn. Quan họ chủ
hát mời nâng chén, Quan họ bạn hát mời Quan họ chủ cùng ngồi. Quan họ chủ hát
mời bạn ăn, tiếp bạn cho đến lúc bữa cơm bạn ăn gần xong, các Quan họ mới tạm
ngừng hát, lúc này quan họ chủ mới ngồi vào mâm cơm của mình.
Buổi chiều, mọi người đi xem hội.
Đến tối cuộc hát lại tiếp tục. Bây
giờ các Quan họ bắt đầu hát từ giọng “Hừ la” trở đi. Nửa đêm mới tạm nghỉ “xơi
tiệc nước”. Rồi lại tiếp tục hát đến sáng mới giải tán.
Hát ngoài
đồi:
Có điều dễ nhận là, bất kể nắng hay
mưa, nam đều che ô, nữ che nón thúng quai thao. Che ô và che nón để thêm vẻ
lịch sự, duyên dáng, để tránh những con mắt tò mò xoi mói ở xung quanh, để liếc
nhìn bạn được dễ dàng và để cho tiếng hát có âm vang (một kiểu cộng minh).
Từng đôi bạn có thể đứng hát với nhau
ở bất kì chỗ nào quanh đồi Lim. Xung quanh họ, người xem đứng rất đông.
Suốt ngày, trên đồi và quanh đồi Lim
xúm xít đây đó từng đám hát như vậy.
Họ hát với nhau đôi câu, thấy hợp nhau
thì hát tiếp, không hợp thì chào nhau để đi tìm bọn khác.
Trẩy hội:
Trai gái đi hội đều mặc những bộ quần
áo đẹp nhất đã đành, những người hát Quan họ lại có bộ quần áo đặc biệt, như là
lễ phục riêng. Trai thì áo lụa, áo the, quần ống sớ, khăn xếp; gái thì mớ bảy
mớ ba, áo tứ thân nhiễu điều nhiễu tía, yếm đào xẻ con nhạn, thắt lưng hoa đào
hoa lý, đeo khuyên vàng, xà tích…giữa trời đất mùa xuân mưa phùn, gió nhẹ, cây
cối đâm bông nảy lộc, từ xa nhìn vào đám hội ăn mặc đẹp đẽ, đủ màu sắc tươi
rói, trông rất ngoạn mục. Đấy là chưa kẻ đến các trò đua vui, đua tài khác tổ
chức giữa đồng từ quốc lộ 1A đến đồi Lim. Họ đánh đu, đánh cờ người, chọi chim,
chọi gà, đốt pháo, bắt vịt….làm cho không khí ngày hội thêm từng bừng, náo nức.
3. Dạ trạch
hóa từ và lễ hội Chử Đồng Tử
Du khách có dịp xuôi dòng sông Hồng ,
dừng chân trên bãi cát Tự Nhiên , hẳn không quên câu truyện về mối tình nên thơ
và diễm lệ gữa chàng đánh cá nghèo không một mảnh khố che thân và nàng công
chúa Tiên Dung lá ngọc càng vàng . Phong cảnh nơi đây thật hữu tình . Chính
dòng sông , bến nước này là nơi lưu truyền và lan tỏa câu chuyện về mối tình
mãnh liệt mà đến ngày nay đã vượt ra ngoài giới hạn vùng Dạ Trạch .
Dạ Trạch hóa từ được xây dựng trên
khu đất cao và rộng . Trước kia ở xung quanh đền có nhiều cây thông cao vút ,
nhiều cây cổ thụ cành lá xum xuê tỏa rộng che mát sân đền . Phía ngoài khu vực
đền là bãi long sậy um tùm . Người dân muốn vào đền phải dùng thuyền đôc mộc ,
luồm lách qua những con lạch nhỏ . Địa hình nơi đây hiểm trở khó đi lại . Vì
vậy , qua các triều đại nhiều tướng lĩnh đã lấy làm căn cứ chống giặc ngoại xâm
.
Một nét độc đáo của Dạ Trạch hóa từ
là trong đến thờ “ bế ngư thuyền quan ”
( cá chép ) . Cá chép làm bằng gỗ nhưng trông rất sống động .
Trước đền có ao hình bán nguyệt ,
nước trong xanh . Giữa ao có 2 ụ đất lớn dó là mộ 2 ông Thần Đồng .Phía dưới ao
là gác chuông . 1 chiếc chuông đồng đồ sộ treo chính giữa . Ngoài ra còn có 2
bia dựng đối diện nhau .
Dạ Trạch hóa từ không chỉ là nơi thờ
cúng , mà hằng năm còn là nơi tổ chức lễ hội Chử Đồng Tử . Lễ hộ diễn ra trong
3 ngày , từ ngày mùng 10 / 2 đến 13 / 2 âm lịch . Nhân dân mở hội để tưởng
nhớ đến Chử Đồng Tử - Tiên Dung và bà Ba
họ Nguyễn , những con người dũng
cảm vượt qua trở ngại của những ràng
buộc của tập tục cũ để đến với tình yêu chân chính .
Lễ hôi diễn ra thật tưng bừng và náo
nhiệt , nhất là vào ngày chính hội . Tất cả dân làng quanh vùng đều tập trung
về đền để dự hội .
Mở đầu là lễ
khai mạc . Sau lễ khai mạc thì đến “
rước nước ” tức là lấy nước ở sông Hồng về đền . Đứng đầu đám rước là con rồng
vàng lộng lẫy uy nghi uốn lược theo nhịp trống phách dồn dập . Hai bên bờ sông
2 con rồng đang bay , dưới lòng sông mấy chục chiếc thuyền đủ màu sắc đang lướt
nhanh trên mặt nước , đua nhau ra giữa dòng nước để lấy nước thật trong về tắm
cho nàng Tiên Dung và để đón đoàn rước nước bên kia sông về đền chính cùng tổ
chức lễ dâng hương lên 3 vị thánh của dân làng quanh vùng . Lễ dâng hương đựợc
cử hành trước bàn thờ lớn
Xung quanh đền ,
quanh hồ hính bán nguyệt , quanh gác chuông các tò chơi dân gian diễn ra thu
hút mọi người cùng tham gia . Chỗ này thì vật võ , rồi chọi gà , múa gậy , chơi
cờ người . Các trò chơi kéo dài suốt ba ngày lễ .
Ngày hôm sau ,
một hồi trống đập rộn rã thúc giục mọi người cùng tham gia đón rước “ phát du ”
nghĩa là rước thánh đi du ngoạn nơi cảnh cũ . Bao giờ con rồng cũng múa lượn
dẫn đầu đám rước , rồi mới đến những cỗ kiệu Thánh , tiếp theo mới đến đoàn
người đi dạo cùng thánh .
Ngày thứ ba ,
nhân dân vẫn tiếp tục mang xôi , hương hoa đến tế lễ và nhận lộc thánh . Buổi
tối mọi người tập trung xung quanh ao hình bán nguyệt xem đốt pháo hoa và nghe
đọc thơ , xem trình diễn chèo hay múa rối nước phỏng theo sự tích Chử Đồng Tử .
Đền Dạ Trạch hóa
từ là khu di tích lịch sử đã được xếp hạng , trong tương lai nó còn là một điểm
du lịch mới .
B . GIỖ , LẾ TẾT
1,Tết Nguyên Đán
Nguồn gốc tết
nguyên đán có từ đời Ngũ Đế , Tam Vương .
Đời Tam Vương ,
nhà Hạ , chuộng màu đen , nên chọn tháng đầu năm , tức tháng Giêng , nhằm tháng
Dần và do đó tết vào đầu tháng dần .
Nhà Thương thích
màu trắng , lấy tháng Sửu , tháng Chạp làm tháng đầu năm .
Qua nhà Chu (
1050 – 256 TCN ) , ưa sắc đỏ , chọn tháng Tý , tháng Mười một làm tháng tết.
Các vua chúa nói
trên ,, theo ngày giờ , lúc mới tạo thiên lập địa ( nghĩa là giờ Tý thì có trời
, giờ Sửu thì có đất , giờ Dần sinh loài người ) mà đặt ra ngày tết khác nhau .
Đến đời Đông Chu
, Khổng Phu Tử ra đời , đổi ngày tết vào một tháng nhất định : tháng Dần .
Mài đến đời Tần
( thế kỉ III TCN ) Tần Thuỷ Hoàng lại đổi qua tháng Hợi tức tháng Mười .
Cho đến khi nhà
Hán trị vì , Hán Vũ Đế ( 140 TCN ) lại đặt ngày tết vào tháng Dần ( tức tháng
Giêng ) như đời Hạ , và từ đó về sau , trải qua bao nhiêu thời đại , không còn
nhà vua nào thay đổi về tháng tết nữa
Đến đời Đông Phương
Sóc , ông cho rằng ngày tạo thiên lập địa có thêm giống Gà , ngày thứ hai có
thêm Chó , ngày thứ ba có Lợn , ngày thứ tư sinh thêm Dê , ngày thứ năm sinh
thêm Trâu , ngày thứ sáu sinh Ngựa , ngày thứ bảy sinh loài Ngừơi và ngáy thứ
tám mới sinh ra ngũ cốc .
Vì thế ngày tết
thường đươc tính từ ngày mùng một đến hết ngày mùng bảy .
Tết Nguyên Đán
Tết Nguyên Đán ,
“ những buổi rạng đông của sự khởi đầu ” ngày nay là lúc khởi đầu của năm ,
tháng , mùa . Nó đứng đầu chuỗi nhịp điệu các thời kì . Vì thế , sáng hôm đó là
buổi sáng linh thiêng nhất . Nó là điềm báo trước các sự kiện tốt lành của các
tháng âm lịch tiếp theo . Tết vừa theo sự vận hành của cả mặt trời lẫn mặt
trặng . Nó mở đầu mùa xuân và như vậy bao giờ cúng rơi vào giữa hạ tuần tháng
giêng dương lịch và trung tuần tháng 2 dương lịch . Tất cả các cử chỉ được lám
trong những giờ đầu tiên đều có hiệu lực của một đạo bùa . Xưa kia người ta
thổi ống tiêu để đoán tính chất điều kiện khí hậu trong năm , người ta uống
rượu để xua đi các hơi lạnh và tử khí .
Việc chuẩn bị
tết bắt đầu ngay hôm sau ngày cúng Thần Bếp , ngày 23 tháng Chạp . Hôm đó , Táo
Quân thần trông coi đời sống của gia đình lên trời để tâu trình với thượng đế
về cách ăn ở của mọi người trong gia đình năm qua . Cuộc khởi hành của các thần
bếp phát tín hiệu cho mọi người chuẩn bị tết , Ai cũng tìm cách bán tất cả các
hàng hóa họ có thể bán để trang trải các khoản nợ . Phố phường có dáng vẻ rất
nhộn nhịp nơi thì bán hoa , cây xanh ,, tranh dân gian , thực phẩm . Bên trong
mỗi ngôi nhà cần phải có bầu không khí nhuốm màu sắc rực rỡ là biểu tượng của
hanh phúc , điểmbáo trước những sự kiện tốt lành và những lá bùa có thể xua đuổi ma quỷ , các ông đồ nghèo
, trong 10 ngày trước tết ngồi ở một góc phố nhỏ hay những vỉa hè để bán những
băng giấy đỏ rắc phấn vàng hay bạc , những tấm biển trang trí hoa mà trên đó họ
viết những câu đối hay những hoành phi nói đến
năm đang bắt đầu , đến mùa xuân
đang mở ra , đến gia đình hoặc chí hướng của người chủ . Họ cũng thường viết
trên những mảnh giấy người ta đưa để lấy một khoản tiền nhỏ . Nếu trong năm
trong gia đình có người chết thì người ta dùng giấy màu vàng hoặc xanh . Tất cả
sự chuẩn bị lâu dài và tỉ mỉ này kết
thúc bằng việc dựng cây nêu . Đây là một cây tre dài 5 – 6 m được tước hết cành
lá nhưng có để lại ở ngọn những cụm lá hoặc buộc vào đó một túm lông gà trống ,
một mớ lá đa hay lá cây vạn niên thanh . Gần đỉnh treo một cái võng tre có buộc
những con cá nhỏ , những chiếc chuông con và khánh bằng đất sét nung phát ra
một âm thanh nhẹ và êm khi gió thổi . Dưới cái vòng này có buộc một cái mũ thần
, những thoi vàng bằng giấy , những miếng trầu , lá dứa hoặc cành xương rồng
gai . Ở đỉnh còn treo một cái đèn thắp ban đêm . Cây nêu được làm như vậy với ý
nghĩa chỉ đúng đường cho tổ tiên trở về ăn tết với gia đình – những ngừơi đang
sống .
Tất cả các cuộc
chuẩn bị đều phải hoàn thành , mọi nợ nần phải được thanh toán trước giờ cuối
của năm . Người ta làm cho xong mọi việc dọn dẹp nhà cửa . Người chủ gia đình
mặc lễ phục đứng trước bàn thờ tổ tiên để thỉnh các vị về ăn tết cùng con cháu
. Và người ta thức sau bữa ăn tối để chờ năm cũ nhường chỗ cho năm mới .
Quá nửa đêm ,
người ta kê một cái bàn ở giữa sân cúng Thượng đê và Táo quân sắp từ trời trở
về sau khi dâng tờ tâu trình hàng năm . Bàn thờ tổ tiên cũng được thắp đèn sáng
và kẹo bánh đựơc dâng cung giữa hương khói dày đặc . Những nghi lễ hoàn toàn có
tính gia đình này được đánh dấu bằng tiếng pháo .
Đêm giao thừa
này còn được đánh dấu bằng những cuộc đi lễ đền chùa . Ai cúng lấy làm vui
thích và tự thấy mình có bổn phận phải ra đình và đến đền chùa . Ở tất cả các
đền chùa này nghi ngút đèn hương tất cả mọi người cả già lẫn trẻ đếndâng lên
Chư phật cùng những thần linh khác những lời cầu nguyện đầu tiên với tất cả
lòng thành kính mong cho một năm mới thật thanh bình ,hạnh phúc với một tấm
lòng giản dị và thành tâm .
Ngày hôm sau tất
cả mọi người đến nhà họ hàng , bạn bè chúc mừng năm mới . Trước lúc đi tết các
nơi người con trưởng cùngtất cả các em theo sau chúc tết cha mẹ . Bên ngoài
ngay khi mở cửa đón khách thì thầy đồ nghèo đưa cho gia đình bạn những
mảnh giấy điều nhỏ , trên đó ghi những
lời chúc chúc gia đình thịnh vượng may mắn , hạnh phúc .
Như vậy
tết là một ngày thiêng liêng trong tất cả . mọi người gửi tới nhau tất cả những
lời chúc tốt đẹp nhất,mong một năm mới mạnh khỏe, vui vẻ, an lành và hạnh phúc
. Và dường như ai cũng thấy ở sự thịnh vượng của láng giềng , vẻ thanh bình và
yên ổn của tất cả mọi người .
2, Tết Thanh Minh
Tết thanh minh được đặc trưng bởi bầu không
khí trong (thanh) và sáng (minh).tết diễn ra hàng năm sau tiết Xuân phân nửa
tháng.
Giữa mùa xuân,
lúc cây cối đâm chồi nảy lộc, tất cả trai gái đàn ông phụ nữ trước khi tiếp tục
du xuân trong các cuộc hành hương và lễ hội sau tết đều tiến hànhcung vong hồn
cha mẹ, tổ tiên.
Hàng năm sau vụ
gặt tháng Mười , vào khoảng tiết Đông chí , mọi người đi thăm một lần đầu tiên
. Người ta ghi nhận sự xuống cấp xảy ra từ mùa mưa vừa qua , hay do công việc
đồng áng gây ra của hai vụ gặt vừa rồi . Người ta lập bản kê những sửa chữa cần
phải làm . Cả gia tộc được báo động , và mọi việc được chuẩn bị để tiến hành
đìều cần thiết vào tiết Thanh minh .
Đến ngày này ,
đàn ông trong gia tộc , cùng đi có một vài người đàn bà ( những người đàn bà
khác phải ở nhà chuẩn bị cơm cúng tổ tiên sau khi tảo mộ ) đến các nơi mai tang
cha mẹ . Những ai còn đang tuổi tráng niên thì mang xẻng cuốc . Đàn bà thì bước
theo nhịp gánh những đồ cúng gồm vàng giấy , hương , trầi cau và bánh khô .
Thật là thư thái
tâm hồn khi thái những người nông dân áo quần tinh tươm , ra khỏi làng từ sáng
sớm tinh mơ để tới các ngôi mộ , băng qua bờ hẹp của những mảnh ruộng nhỏ xíu
còn đầm hơi sương . Những cảnh tượng thành kính chứng tỏ nhu cầu muốn sống xích
lại với người đã chết .
Đến nơi , thanh
niên trai tráng bắt đầu bằng việc dọn cỏ xâu có thể thấy ở mộ . Các ổ chuột hay
lươn được xem xét và bịt chặt một cách cẩn thận . Mặt bia được rửa , và các
dòng chữ được tô mực lại .
Sau đấy , mọi
người bày đồ cúng trước mộ . Người ta thắp hương cắm lên mộ , cũng như trên
những mộ xung quanh và trên ban thờ Thổ Địa nơi đó . Lúc ấy người chủ gia đình
đứng quay mặt vào mộ chí . Ông chắp tay lên trên chán . Sauk hi khấn người chết
, ông vái dài bốn lần , tiếp theo là bốn vái nhỏ hơn . Rồi ông đứng sang bên
cạnh mộ nhường chỗ cho lần lượt những người trong gia đình đến vái người đã
khuất . Mấy lát sau người ta đốt vàng mã .
Những động tác
này lặp lại ở tất cả các mộ của gia tộc , thường cách nhau khá xa . Các động
tác này có thể kéo dài cả một ngày . Chiều tối mọi người về cúng bàn thờ gia tộc
để thông báo với tổ tiên là lễ Thanh minh đã được làm hếy sức cẩn thận , và xin
tổ tiên an nghỉ trong những nơi trú ngụ đã được sửa sang .
Những nghi lễ
này được tiến hành một cách ít yên tĩnh hơn ở quanh các mộ mới , chưa đến một
năm . Người chủ gia đình cùng con cái mặc tang phục đến than khóc sau khi tạm
thời sửa sang nấm mộ . Hai hoặc ba năm sau lúc hết tang , người ta lợi dụng
thời kì tốt lành này của tiết Thanh minh đào xương cốt lên , chuyển sang mộ mới
tốt hơn . Người ta bắt đầu bằng việc thu nhặt hài cốt để cọ rửa . Rồi xếp những
xương đó theo thứ tự tự nhiên trong một chiếc tiểu bằng đất sét nung bên trong
đã được phủ giấy vàng .Ở gia đình giàu thì chiếc tiểu được đặt trong một chiếc
quách bằng gỗ hoặc từ mấy năm nay , bằng xi măng . Sau đấy người ta đem chôn
trong một cái hố mới được chọn cẩn thận . Lần chôn thứ hai này gọi là cái tang
hay cát táng , trái với lần chôn thứ nhất là hung táng .
Trong một số gia
đình khác , người ta nhân dịp này để dựng mộ chí nếu tuổi người cháu đích tôn
của người chết , theo tín ngưỡng , không cho phép dựng trước . ở những gia đình
trong những tháng qua gặp nhiều rủi ro thì vối sự giúp đỡ của thầy địa lí ,
người ta làm lế phúc mộ trước mộ để xác định xem mộ nào bị động , để tính di
chuyển sang chỗ khác .
Với niềm hiếu
thảo sâu sắc, năm nào người ta cũng làm lễ thanh minh với ý nghĩa người sống
tăng cường mối liên hệ ràng buộc họ với những người thân đã khuất của mình. Sau
khi tỏ lòng thành kính với những người đã khuất, mỗi người tìm cách sống những
ngày mới với những điều may mắn nhất.
3 ,Tết Đoan Ngọ
Ở Bắc Kì, Đoan
ngọ là một trong những ngày lễ quan trọng nhất và phổ biến nhất bất chấp sự
tiến công của thời gian và nền văn minh khoa học.
Ta biết rằng
phần lớn các lễ tết ở nước ta thường được tổ chức theo mùa, đặc biệt là vào mùa
xuân, vì ở miền Bắc mùa xuân rất đẹp và rất dịu. Nhưng Tết Đoan Ngọ lại đựơc tổ
chức vào mùa hè.
Đoan Ngọ, hay
“điểm chính của sự kháng cự”, đánh dấu một trong những thời điểm của tháng thứ
hai mùa hè này khi khí dương lên tới đỉnh cao nhất, khí âm cũng đồng thời xuất
hiện. Đoan Ngọ thường được cử hành vào ngay mồng 5 tháng Năm ta, tức là khoảng
hạ chí. Nó còn được gọi là tiết Thiên trung, vì mặt trời vào giờ Ngọ hôm đó
đứng ở điểm cao nhất của bầu trời. Người ta còn gọi là tiết Địa Lạp, vì ngày
này các vị thần trên trời ghi vào sổ trường thọ địa vị xã hội và chính trị của
mỗi người, các quan hệ họ hàng, các lúc thịnh suy của người đó.
Dù thế nào, tết
Đoan Ngọ không những là một lễ lớn của mùa hè mà còn cùng với ngày Tết và Trùng
thập(mùng 10 tháng 10)-tức là lễ cúng cơm mới làm thành 3 ngày lễ lớn của ngừoi
Việt Nam. Hôm đó ngừoi ta chủ yếu biếu nhau ngỗng, vịt, dưa hấu, đừong và đỗ
xanh. Trong các gia đình người ta thường cúng nhưng dì của thời vụ.
Đấy chẳng phải
là những tập tục cúng lễ duy nhất mà người ta sử dụng tết Đoan Ngọ để trừ tà ma
chướng khí và còn nhiều tập tục khác nữa.
Tết Đoan Ngọ
thực là lễ kì lạ nhất trong lịch sử của người việt. Diễn ra ngay đúng giữa mùa
kinh khủng nhất trong xứ này, nó được cử hành vì sợ sự đe dọa thường xuyên của
bệnh tật và chết chóc lởn vởn trên đầu mọi người. Nó tiếp tục và củng cố cho
chuỗi lễ nghi được làm ngay khi mùa xuân kết thúc, để làm nguôi giận các thần
trên trời.
Trước sự tiến
công dữ dội của một số thần có thể gieo cái chết cho hàng vạn sinh linh, người
ta phải dùng đến những phương pháp lạ lùng và những thực hnàh ma thuật chẳng
hiểu kế thừa từ đâu nhưng cũng đều cắt nghĩa như nhau. Dường như các cách được
sử dụng đã được lấy trong kho tàng dân gian xa xưa nhất của địa phương. Hay là
chúng có quan hệ ít nhiều với các tín ngưỡng liên quan đến sự trường thọ mà các
đạo sĩ của Lão giáo truyền bá? Do đó, Đoan Ngọ có tầm quan trọng hàng đầu tron
tôn giáo dân gian Việt Nam.
4) Tết Trung Thu
Ngày rằm tháng
tám này đúng vào thời điểm giữa ba tháng của mùa thu, được gọi là tết trung thu
hay tết tháng tám. Vào thời kì này bầu trời trong trẻo và mặt trăng rất tròn,
sáng rực rỡ.
Đêm rằm tháng 8,
người ta long trọng rước rồng qua các phố, đi trước là những lá cờ ngũ sắc,
những đèn lồng hình hoa quả, tôm cá hay những vậ quý. Trong đam rước đi thoe
rồng là một con sư tử. bằng những điệu múa rồng và sư tử, theo tín ngưỡng người
ta tạo cho cả nước những trận mưa tốt lành, mọi người đảm bào cho mình có cuộc
sống phồn thịnh vàn sự yên ổn.
Đêm trung thu,
mọi người tụ họp xem trăng lên. Tùy theo màu sắc cùng dáng vẻ của vì tinh tú
này người ta rút ra các điềm báo. Nếu trăng màu vàng thì tằm sẽ nhả nhiều tơ,
trăng sáng vằng vặc thì sẽ có vụ mùa bội thu.
Tết trung thu
trong một quá trình diễn biến lâu dài của tư tưởng va phong tục, đã trở thành
ngày hội lớn của tuổi trẻ, trong đó trai gái gặp gỡ nhau và hát đối đáp giữa
đám đông và dưới ánh trăng. Thậm chí về sau, cùng với phong tục trở nên tinh tế
hơn, với sự phát triển của nền văn hóa cổ điển và sự tỏa sáng của ý thức hệ Nho
giáo chính cống, các nghềệ sĩ đã biến tết trung thu thành một cái tết ngắm và
thưởng trăng. Trái lại nhữnh thanh niên đã hoặc sắp sửa thành tài lại vui tết
trung thu theo kiểu của họ. Đối với họ đây là ngày tết của tương lai, ngày tết
mở đầu cho các kì đỗ đạt sắp tới của họ. Vì thế, ở tết trung thu này người ta
bày lên bàn dành riêng cho trẻ con tất cả các hình trạng nguyên, tiến sĩ,… của
những khoa thi ngày xưa, hình bàn thờ gia tộc, các đình làng, là những nơi mà
các vị tân khoa ngày xưa sẽ phải đến long trọng làm lễ khi vinh quy về làng.
Trung thu ở nước
ta đã trở thành một ngày lễ mang tính chất phức tạp thú vị, đến nỗi cũng như
tất cả các lễ hội có tính dân gian khác, nó làm cho ai cũng quan tâm và sung
sướng, bất kể họ thuộc giai tầng nào hay lứa tuổi nào trong xã hội. Thoạt đầu
đựoc coi là ngày lễ của người làm ruộng chỉ lo lắng đến các vụ thu hoạch của
mình; là ngày tết của dạm hỏi, nó góp phần to lớn làm cho xích lại gần nhau; là
ngày tết của tuổi trẻ học trò, nó mang lại cho mọi người hi vọng rằng trong
những ngày sắp tới họ có thể thờ vua giúp nước, và họ sẽ xứng đáng với lòng tin
của các bậc phụ huynh trưởng cũng như các cô vợ xinh đẹp và đức hạnh đang trông
mong trong sự im lặng và tần tảo, đựoc theo sau chàng trong đám rước vinh quy trên
những chiếc võng điều.
V . QUAN HỆ XÃ HỘI , HÔN NHÂN GIA ĐÌNH
1 . Quan hệ xã hội : Xóm làng
Làng xóm người
Việt xưa được xây dựng ở những vị trí tiện nước sinh hoạt và sản xuất , đồng thời
phải ở những nơi cao ráo và có khả năng chống thú dữ , giặc dã …
Nếu dựa vào thế
đất mà phân loại thì làng xóm người Việt ở cả 3 miền có khá nhiều dạng khác
nhau . Làng xóm trung du , đồng bằng Bắc Bộ và Trung Bộ có những nét gần nhau
và có các dạng chủ yếu như : làng ven sông , làng vùng đồi gò , làng trên ô đất
trũng , làng ven biển và làng dinh điền …
Làng ven sông :
không phải tới ngày nay mà từ xa xưa , tổ tiên người Việt đã lập cư ở ven sông
. Làng ở gần sông có nhiều thuận lợi cho sản xuất và sinh hoạt . Chẳng thế mà
làng xóm và những dòng sông đã để lại trong tâm hồn người Việt biết bao tình
đằm thắm và thân thương :
Làng ta phong
cảnh hữu tình
Dân cư giang
khúc như hình con long
Làng xóm mọc lên
san sát nối tiếp nhau thành 2 đường viền dọc đôi bờ các dòng sông lớn , nhỏ :
sông Hồng , sông Lô , sông Đuống , sông Cầu , sông Mã …
Tuy ơ ven sông
nhưng làng xóm được thiết lập trên các thềm đất cao ( trong hoặc ngoài đê ) .
Làng nhìn ra sông , nhưng lại thường nhìn theo dòng nước chảy , ruộng bên cạnh
hay sau lưng làng . Làng hẹp chiều ngang nhưng lại phát triển chiều dài .Làng thường có một con đường trục
– đường chính chạy dọc qua làng . Hai bên đường chính là những nhánh ngang để
đổ ra sông hoặc ra đồng ruộng . hệ thống đường này như bộ xương cá .
Làng ven sông
tuy đông dân nhưng nhà nào cũng có một mảnh vườn để trồng rau xanh và cây ăn
trái . Vườn tược tuy không rộng nhưng đựợc tổ chức rất chu đáo nên thu hoach
khá cao .
Làng xóm ven
sông hằng năm thường bị ngập lụt
Làng vùng gò đồi
: lọai này phổ biến khắp các vùng trung du và bán sơn địa , qui mô không lớn ,
số dân không nhiều . Làng được xây dựng trên các sườn đồi theo kiểu vành khăn ,
nhưng cũng có khi chỉ chiếm một phần nào đó của sườn đồi . Nhà cửa xếp thành
nhiều tầng , nhiều lớp như những bậc thang . Cũng có khi làng phủ kín cả mặt
đồi – làng đồi . Làng vùng đồi thường thưa thớt , tách biệt nhau bằng những
cánh đồng nhỏ như những thung lũng . Mỗi làng đứng ở vị trí riêng như những ốc
đảo nổi trên biển lúa xanh . Mật độ cư dân không cao nên nhà cửa trong làng
cũng không nhiều , diện tích thổ cư khá lớn . Vườn tược khá rộng rãi nhưng đất
đai khô cằn nên việc trồng vườn trong các khuôn viên trung du kém phát triển
Làng trên ô đất
trũng : dạng làng này chủ yếu xuất hiện ở các vùng châu thổ , nhất là vùng
trũng sông Hồng . Xóm làng thường phô ra cái diện mạo rất đa dạng của nó , quy
mô cũng rất khác nhau . Mật độ cư dân cũng rất cao trong làng nhà nọ sát nhà
kia . Nhiều nơi mỗi hộ chỉ có một vạt đất hẹp vừa đủ dựng một ngôi nhà nhỏ với
một mảnh sân con . Cũng giống như làng xóm ven sông , làng xóm vùng đất trũng
hàng năm bị úng lụt .
Làng ven biển và
làng dinh điền : làng xóm ven biển thường thưa thớt . Nhà cửa trong làng thường
bố trí theo kiểu song hành giữa 2 tuyến có nhà cửa là một tuyến đất trũng . Số
dân trong làng này khá cao , nhưng nhà nào cũng có vườn khá rộng , trồng trọt
giống như làng ven sông . Tuy sống gần biển nhưng những cư dân này vẫn gắn bó
với đồng ruộng hơn là hướng ra biển .
Còn làng xóm
miền Nam lại có những đặc điểm riêng thích ứng với địa thế đồng bằng sông Cửu
Long . Về mặt cư trú có thể chia đồng bằng Nam Bộ thành 4 vùng chủ yếu . Mỗi
vùng có sắc thái riêng tạo thành các dạng làng khác nhau :
Làng vùng đất
cao miền : từ Vàm Cỏ Đông trở lên phía
đông phần lớn châu thổ thuộc hệ thống Cửu Long – Đồng Nai đươc bao phủ bởi một
lớp phù sa cổ . Lớp phù sa này được cấu tạo sau một thời gian bồi đắp liên tục
nên đã tạo thành những mặt cao nguyên nhỏ bằng phẳng và nghiêng dần phía Tây .
Do tác dụng xâm thực địa chất nên đã tạo ra nhiều trũng ngập nước về mùa mưa ,
đồng thời các thung lũng hẹp của các sông trong vùng đã chảy len lỏi giữa phù
sa cổ tạo thành những ô đất trũng ngập nước chia vùng này thành các cao nguyên
nhỏ . Làng xóm dựa trên thế đất nên có hình thù rất đặc trưng cho vùng này
Làng trên giồng
Duyên Hải : dọ theo duyên hải phía đông – nam đồng bằng Cưử Long từ giồng Sơn
Qui đến gần sông Gành Hào là một hệ thống duyên hải theo hình vòng cung tây bắc
– đông nam chạy dài khoảng 250 km . Làng xóm ở đây nhà cửa thưa thớt thường là
hinh cung dài uốn theo kích thước và hướng của mỗi đất giồng . Cư trú trên đất
giồng vì có nước ngọt , đất khô ráo
trồng cây ăn quả và hao màu rất tốt . Giao thông thuận tiện nên việc kinh doanh
phát triển .
Làng trên vùng
phù sa nước ngọt sông Tiền và sông Hậu : đây là vùng đất phù sa màu mỡ nằm giữa
đồng bằng Cửu long dọc hai con sông lớn trong vùng . Một vùng nước không bị ảnh
hưởng của nước phèn , nước mặn nên đây là vùng có nhiều cây ăn trái nhất miền
Nam . Một vùng được mệnh danh là “ miệt vườn ” , dân cư đông đúc , trồng lúa
được hai vụ trong một năm . Ở đây có thể chia hai dạng địa thế khác nhau : địa
thế cao , nếu ở giữa 2 dòng sông thì làng xóm có hình thoi ( cù lao ) , còn dọc
các con sông là kiểu làng chài ven sông như ngoài Bắc .
Làng trên vùng
thấp ngập nước : đây là 1 vùng đất phèn rộng lớn ngập nước bao gồm Đồng Tháp
Mười , U Minh , Kiên Giang . Làng xóm tuy nhỏ nhưng nhà cửa của cư dân làm liền
kề nhau cho bớt phần hiu quạnh . Cũng
trên vùng đất này nhưng ở bắc An Giang và Châu Đôc có nhiều đồi núi nên
làng xóm lại bao quanh sườn núi tạo nên kiểu làng vành khăn giống như dạng làng
vùng đồi gò miền Bắc
2 . Quan
hệ gia đình
Ngay từ thời các
vua Hùng , gia đình người Việt đã là gia đình phụ hệ nhưng còn nhiều tàn dư của
gia đình mẫu hệ . Đơn vị xã hội lớn hơn gia đình là các công xã nông thôn . Trải
qua nhiều thế hệ , hình thức công xã này đã tồn tại như là một yếu tố bảo thủ
nhất kéo dài cho đến cách mạng tháng tám .
VI . PHONG TỤC TẬP QUÁN
1 . Cưới hỏi
VIỆT
VAI TRÒ CỦA CHA
MẸ TRONG HÔN NHÂN
Trong xã hội cũ,
cha mẹ đóng vai trò quan trọng, quyết định cuộc đời của các đôi nam nữ thanh
niên. Với những gia đình nề nếp, có gia giáo thì “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”,
và gia đình hai bên phải “môn đăng hộ đối”.
Các cụ thường
kén vợ cho con dựa theo tiêu chuẩn “công ,dung, ngôn, hạnh”
1. Công: là nết
ăn nết làm, tài đảm đang quán xuyến việc chăn tằm, dệt vải đến thêu thùa, kim
chỉ vá may, cỗ bàn, giỗ tết đều phải được làm nhanh gọn. “Giàu vì bạn, sang vì
vợ”. Vợ đảm, là một nội tướng trong gia đình.là một trong những yếu tố làm gia
đình êm thấm.
2. Dung:Nghĩa là
nhan sắc, tuy tiêu chuẩn về cái đẹp của mỗi thời khác nhau nhưng quan trọng
nhất vẫn là Khoẻ mạnh, không bệnh tật, có khả năng sinh con cái,người xưa quan
niệm rằng mỗi con mỗi lộc, càng nhiều con càng có phúc
3. Ngôn: Là lời
ăn tiếng nói, biết thưa gửi, dạ vâng,biết rào trước ý tứ để không làm mất mất
lòng ai, có cương có nhu.Lựa lời mà nói cho phải lúc
Chồng giận thì vợ bớt lời
Cơm sôi bớt lửa một đời không khê.
4. Hạnh:Là đức
tính tốt đẹp của người phụ nữ ,là cách cư sử với mọi người từ già trẻ, lớn bé
sao cho đúng mực,
Các nhà gia thế
ngày xưa thường kén rể cho con dựa vào tiêu chuẩn đạo đức, chí khí nam nhi của
chàng trai.
* Bà
mối
Đa số các đôi
nam nữ thanh niên muốn nên vợ nên chồng đều phải so tuổi, tuổi hợp nhau sẽ sống
hoà thuận, ăn nên làm ra, không hợp tuổi thì sống khổ sở nghèo hèn. Nhiều khi so tuổi hợp hay không phụ thuộc vào mấy
ông thầy bói.
Bà Mối là người
trung gian, đánh tiếng bắc cầu cho đôi nam nữ thanh niên hiểu nhau rồi đi đến
hôn nhân.Gia đình nhà trai nhờ bà mối sang đánh tiếng trước với gia đình nhà
gái,nếu gia đình nhà gái ưng thuận bà mối sẽ giúp cho gia đình nhà trai sang
xem mặt cô gái.
* Hôn Lễ
Khi mọi việc
tương đối ổn định,gia đình 2 bên nam nữ quyêt định hôn lễ cho 2 con.
Khi cưới hỏi
thường có đủ sáu lễ
Nạp thái, là đưa
lễ để tỏ ý đã kén chọn,tục gọi la chạm mặt hay giạm vợ
Vấn danh(hởi vợ)
hỏi tên tuổi và họ người mẹ
Nạp cát(bói được
tôt) báo cho nhà gái biết
Thỉnh kỳ(định
ngày cưới hỏi) xin hứa trước với nhà gái
Nạp tệ (đưa lễ
cưới)
Thân nghinh (đón
dâu)
Sau này, sáy lễ
trên giảm xuống còn 3 lễ
Lễ chạm mặt
Lễ ăn hỏi
Lễ cưới
* Chạm ngõ
Muốn chạm ngõ
phải chọn ngày tốt, tức là ngày âm dương bất tương thì việc vợ chồng sau này
mới tốt lành.
Khi đã xác định
được ngày tốt nhà trai sắm một lễ mọn để cúng tổ tiên báo về công việc hệ trọng
đối với chàng trai.Sau đónhà trai sửa một lễ mang sang nhà gái. lễ gồm:Một cơi
trầu têm cánh phượng, cau bổ tư bẻ cánh tiên. Nhà giàu thì đưa lễ cả buồng cau,
mười mớ trầu, mứt sen, trà lạng đựng trong mấy quả sơn son thiếp vàng. Nhiều
nơi ngoài cau trầu , rượu, nhà trai thường biếu bánh khảo,hay vài thứ bánh được
ưa chuộng trong vùng
Dẫn đầu đoàn
người đi ăn hỏi gồm bà mối, bà mẹ, bà dì, bà cô của chú rể. Các cô gái chưa
chồng ở trong họ thường đội các mâm quả hoặc bưng khay trâù đi trước, sau đó là
nam giới và chú rể.
Lễ được chia làm
hai phần: Phần nhiều được đặt lên bàn thờ khấn vái tổ tiên, phần còn lại dùng
để lễ gia tiên bên ngoại.
Trước khi nhà
trai từ giã, nhà gái thường sẻ một phần lễ để biếu lại nhà trai gọi là lại quả.
Lễ chạm ngõ đến lễ ăn hỏi không có thời hạn nhất định, nếu một bên đổi ý thì
cơi trầu chạm ngõ là cơi trầu bỏ đi.
* Sêu tết
Sau lễ chạm ngõ,
chú rể được coi gần như một thành viên của gia đình. Chú rể phải thường xuyên
đi lại thăm nom khi nhà cô gái có người đau yếu hoặc giúp công sức khi nhà cô
gái có việc.
* Ăn
hỏi
Lễ ăn hỏi cũng
phải xem ngày.Lễ ăn hỏi phải chu biện theo đòi hỏi của nhà gái, phải đủ cau,
trà biếu khắp nội ngoại bạn bè.
Lễ gồm có một
quả phù trang để trà, choé rượu,thuốc lá, bánh chưng, bánh dày, lợn quay, xôi
gấc với sáu đến tám mâm đựng cau và trầu, trên phủ vải đỏ. Những người đi đưa
lễ đều khăn đóng, áo dài.
Những nhà khá
giả thường chọn mười cô gái, ôm mười cái quả, trên phủ khăn nhiễu đỏ, ngồi xe
xích lô có lọng che bên cạnh một bà già đáng kính mặc áo dài nhung the. Đi “hộ
tống” bên đoàn xích lô ấy là hàng chục chiếc xe máy mới do các chàng trai cầm
lái.
Sau lễ ăn hỏi là
việc bái hỷ và chia trầu.
Trong lễ ăn hỏi,
hai họ cũng xem ngày và đinh ngày cưới cho đôi trẻ.Đây là một ngày rất hệ trọng
của đời ngưòi nên các cụ xem ngày, gìơ rất kỹ lưỡng.Ngày cưới là ngày bất
tương, thiên hỷ thiên đưc, nguyệt đức v.v…Gìơ cưới phải luôn luôn là giờ hoàng
đạo.
Sau việc dẫn lễ
nhà trai và nhà gái bắt tay vào việc chuẩn bị lễ cưới.
* NỘP
CHEO
Tiền cheo là
tiên mà nhà trai phải nộp cho làng xa bên nhà gáiKhi nộp cheo cho làng tức là
cô dâu chú rể đã được làng công nhận, có kèm theo giấy điểm chỉ,ngày nay đó là
tờ giấy đăng kí kết hôn_ tờ hôn thú .
*CƯỚI CHẠY TANG
Tục cưới chạy
tang thường được sử dụng trong trường hợp vạn bất đắc dĩ.Vì một lý do nào đấy,
hai họ có thể tổ chức cưới chạy tang. Người chết chưa phát tang, chưa khâm liệm
thì họ nhà trai mang lễ sang nhà gái xin cưới. Có thể không cần ngày tốt nhưng
giờ phải là giờ hoàng đạo. Đám cưới được tiến hành chớp nhoáng trong vòng một
hoặc hai ngày.Cô dâu về nhà chồng được mấy tiếng thì gia đình bắt đầu phát tang
và cô dâu cũng chịu tang như mọi thành viên trong gia đình. Những đám cưới chạy tang, cô dâu chủ rể không
được quan hệ với nhau trong vòng 100 ngày.
* Cỗ
cưới
Thông thường,nhà
gái thách cưới để thiết đã mọi người trong họ. Cỗ cưới thường tổ chức trước
ngày cưới một ngày hoặc trong chính ngày
cưới, nếu mời ngày hôm sau là cỗ áp mông không ai đi cả.
Đối với nhà trai,
trước ngày cưới, họ thường bắc rạp, thuê thầy làm cỗ và các thợ nấu.Thường là
mổ lợn,giã giò,cỗ cưới bao gồm bao nhiêu món là tuỳ thuộc vào hoàn cảnh kinh tế
từng gia đình
Đối với những
gia đình sang trọng, giàu có họ thường tổ chức trong các nhà hàng, khách sạn…
Khách đến ăn cỗ
thường mang đồ mừng đến,tuỳ điều kiện từng người và mối thân tình đối với gia
chủ,tiền bạc,cau trầu,rượu trà…..
Ngày nay, trong
các đám cưới, người đến dự cỗ cưới thường mừng tiền để trong phong bì kèm đôi
lời chúc tụng.Việc này có mặt tốt của nó: cô dâu chú rể sau khi cưới không phải
ôm lấy một đống đồ mừng mà họ không cần và được sử dụng số tiền mừng vào việc
sắm những gì mà họ cần thiết.
* PHÙ
DÂU
Thường là người
cô, người dì hay chị em thân thiết của cô dâu, được cô dâu tin yêu và cha mẹ cô
dâu thường ủy thác cho phù dâu để phù dâu truyền kinh nghiệm làm dâu, làm vợ,
làm mẹ cho con mình. Phù dâu phải là người may mắn, tốt phước,gia đình êm ấm
Đám cưới ngày
nay, người ta thường chọn bốn phù dâu, bốn phù rể,toàn nam nữ thanh niên chưa
vợ chưa chồng.Nhà trai và nhà gái đều lo sắm sửa cho cô dâu chú rể và chuẩn bị
cỗ cưới. Nhà trai thường lo mua giường chuẩn bị chăn, chiếu, màn. Nếu nhà trai
khá giả hơn thì còn lo may quần áo cho cô dâu. Cỗ cưới phải có món xôi gấc, ăn
xôi có màu đỏ là đẹp và gặp nhiều may mắn..
Trước khi về nhà
chồng: người mẹ thường thủ thỉ tâm sự với cô dâu,trong món quà mẹ cho con gái
trước khi về nhà chồng bao giờ cũng có một chiếc trâm hay bảy chiếc kim_quan
niệm xưa đàn ông có 7 vía.Thời trước cô dâu quấn khăn nhiễu trên đầu có đính
mấy chiếc kim trên khăn hoặc một cái trâm. Xuất xứ của tục này có lẽ là để
phòng tai hoạ do “phạm phòng, tức là chú rể chết trong đêm tân hôn khi đang
quan hệ với vợ
Trong đám cưới,
khi cô gái bước chân về nhà chồng, mẹ cô gái không đi đưa dâu.Do ngày xưa vai
trò của người phụ nữ không có, chỉ phụ thuộc vào người chồng. Đám cưới của con
gái khi mọi người tiệc tùng thì 2 mẹ con cô dâu ôm nhau khóc,mẹ thương con cũng
bước vào cảnh làm dâu khốn khổ,con khóc vì phải xa mẹ ,có trưòng hợp 2 mẹ con
cùng bỏ chốn,vì thế nên người ta không để cho mẹ cô dâu đi đưa dâu.
* LỄ
XIN DÂU
Trước giờ đón
dâu, nhà trai cử người mang một cơi trầu, một be rượu đến xin dâu, báo trước
giờ mà đoàn đón dâu sẽ đến để nhà gái chuẩn bị sẵn sàng đón tiếp.
*
RƯỚC DÂU
Đầu tiên là một
cụ già cầm hương cùng với một người đội lễ - thường là một cái quả đựng trầu,
cau, và rượu vào trước.
Mâm lễ ấy được
đặt lên bàn thờ,cụ già thắp hương vái, nhà gái vái trả lễ rồi một vị đứng đầu
họ nhà trai cùng ra đón dâu.Lễ này được tiến hành rất nhanh.Sau đó cô dâu cùng
chú rể đến lạy trước bàn thờ gia tiên, xin tổ tiên chấp nhận cho cô dâu chú rể
đem hộp trầu đi mời khắp mọi người trong họ, người bề trên và cao tuổi mời
trước. Khi mời, cô dâu phải chủ động mời trước để chú rể biết cách xưng
hô.Trước khi về nhà chồng,cô gái đến lạy ông bà,cha mẹ .Thông thường lúc ấy cha
mẹ cô gái thường cho cô dâu một vật gì đó làm kỷ niệm
Trước đây cô dâu
thường mặc áo mớ ba,cài khuy kín yếm, để
hở khuy cổ,quần lĩnh hoa chanh, dép cong, nón quai thao,
Trước cửa nhà
thường đặt một hoả lò than hồng, cô dâu phải bước qua để đốt vía những người dữ
vía.Nhiều nơi còn có tục chăng dây, khi gặp dây chăng,cụ đi đầu đoàn đón dâu
cho bọn trẻ mấy đồng để chúng gỡ dây đi vì sợ gặp phải chuyện” giữa đường đứt
gánh”
Ngày nay, ở
thành phố, người ta đón dâu bằng xe ôtô,căng dây tết hoa để để cô dâu chú rể
ngồi và một ô tô khách để chở họ hàng bạn bè Sang thì toàn ô tô con, một đoàn
từ sáu đến mười chiếc, chăng dây tết hoa. Đến ngõ nhà trai, pháo nổ giòn giã,
mẹ chồng cầm bình vôi lánh mặt đi chỗ khác để cô dâu bước vào nhà. Có cụ già
giải thích rằng ngày xưa bình vôi là biểu hiện của tài sản.Các bà nội chợ
rất kiêng_không bao giờ để bình sứt mẻ
thường quẹt them vôi lên miệng bình vì tin rằng bình vôi càng dày ,của cải
trong nhà càng nhiều.Mẹ chồng ầm bình đi vì muốn nắm quyền hành trong nhà,
không cho con dâu quyền điều hành chính.Một số nơi mẹ chồng có tục ra cất nón cho con dâu,sau đó mẹ chồng dắt
con dâu vào nhà đặt tiền và cái quạt lên bàn thờ rồi lễ gia tiên.Lễ xong ,cô
dâu cùng mẹ chòng bước vào buồng.Trong buồng có sẵn một đôi chiếu mới trải úp
vào nhau.Người chải chiếu cho vợ chồng cô dâu phải là người ăn lên làm ra, con
đàn cháu đống,nếu mẹ chồng đủ điều kiện thì mẹ chồng tự trải chiếu,dọn giường cho
cô dâu chú rê,cô dâu nghỉ ngơi một lát,sau đó cầm hộp trầu đi mời 2 họ
* LỄ TƠ HỒNG
Khi đón dâu
về,cô dâu chú rể làm lễ tế tơ hồng.Văn tế tơ hồng mỗi nơi viết mỗi khác, không
có khuôn phép bắt buộc. Để tán tụng công đức của ông Tơ bà Nguyệt se mối duyên
lành cho đôi trẻ và mong ông bà phù hộ cho cô dâu chú rể ăn ở với nhau trọn
tình trọn nghĩa đến đầu bạc răng long, sinh nhiều con đàn cháu đống.
* LỄ HỢP CẨN.
Sau lễ ra mắt bố
chồng, cô dâu chú rể vào phòng.Thông thườn ông cụ cầm hương dẫn đoàn đón dâu
nhà trai đến trải chiếu cho cô dâu chú rể,thong thường chiếu phải trải thẳng
kiêng trải lệch . Sau đó cụ rót hai chén rượu mời cô dâu chú rể uống rồi ý tứ
rút ra ngoài khép cửa buồng lại. Cô dâu chú rể ăn cùng nhau bữa cơm đầu tiên.
Ăn xong rửa bát ngay hay để lại đến hôm sau cũng không sao.
Nhiều gia đình
thời xưa, đêm tân hôn cho lót giấy bản, gọi là giấy thám trinh. Để xem ngườicon
gái con trinh tiết hay không, nếu còn trinh sẽ có máy giọt máu trên giấy.Nếu
không, trong lễ lại mặt, nhà gái sẽ nhận được cái thủ lợn cắt lỗ tai, ngầm báo
nhà trai sẽ trả lại vì cô dâu mất trinh.
* LỄ LẠI MẶT
Ngay sang hôm
sau.Hai vợ chồng trẻ sẽ trở về nhà gái mang theolễ vật để tạ gia tiên. Lễ ấy
gọi là lễ lại mặt. Nhà nghèo thì ba lá trầu, ba quả cau, một nậm rượu.Nhà giàu
thì có them mứt sen, bánh kẹo.Nếu chú rể ở xa,sau bốn ngày trở về nhà gái cũng
được.Giàu hơn nữa thì thì có lợn quay xôi gấc làm lễ, lễ xong nhà gái đem chia
biếu cho những người thân trong họ,bố mẹ
vợ làm mâm cơm để dâu rể cùng ăn.
* XIN Ở RỂ
Những gia đình
sinh toàn con gái, cha mẹ thường có ý lựa chọn xem chàng trai nào hiền lành,
khoẻ mạnh, chăm chỉ làm ăn và đặc biệt phải là con thứ thì cho ở rể.Nhà gái bắn
tin gả con và gây dụng cho chàng rể ấy để nương tựa lúc về già, hương khói lúc
nằm xuống .Số phận chàng rể như vậy được coi là may mắn , nhưng không phải
chàng nào cũng thích thế, vì thường đau khổ với câu nói cửa miệng “ở rể như chó
chui gầm chạn”, tuy nhiên cũng có trường hợp ở rể lại là vinh dự và may mắn
như” chuột sa chĩnh gạo” khi gia đình nhà vợ khá giả, quan hệ 2 bên tốt đẹp,
quan hệ chàng rể với gia đình bên vợ hoà hợp.
* KHI NGƯỜI ĐÀN BÀ TÁI GIÁ
Theo phong tục
xưa, cha mẹ chỉ gả bán một lần, lần sau cha mẹ không tham gia cưới hỏi nữa.
Người đàn bà tái
gái có 2 trường hợp: hoặc chồng chết hoặc đã li hôn
Tục xưa, nếu 2
vợ chồng chưa có con với nhau thì” trai chê , trai bỏ, gái chê gái đền” tức là
nếu “ gái chê” thì nhà trai thường bắt nhà gái đền số tiền gấp 2 hoặc 3 lần số
tiềnnhà trai bỏ ra để tổ chức đám cuới, siêu , tết… nếu 2 vợ chồng đã có con
thì khi bỏ nhau con và của cải đều thuộc về chồng trừ đồ nữ trang nhà gái sắm
cho cô dâu.
Nếu sau này, đôi
mợi chồng định ly hôn lại làm lành với nhau thì không gọi là tái giá.Nhưng
trước khi trở về sống chung với chồng, phải làm lễ tạ gia tiên nhà chồng và cha
mẹ chồng
Nếu chồng chết,
phải chờ ba năm đoạn tang, người phụ nữ mới được tái giá ,người mẹ tái giá được
gọi là giá mâũ. Trứơc khi tái giá phải lo cho chồng cũ mồ yên mả đẹp làm lễ tạ
chồng cũ,khấn chồng cũ phù hộ, cha mẹ chồng vẫn còn thì phải đem cau trầu,rưọu
đến tạ lễ và xin phép đi bước nữa. Đúa con( nếu có) vẫn thuộc bên nội, muốn
mang con đi người phụ nữ phải xin phép cha mẹ chồng hoặc chú, bác của chồng.
*
HÔN NHÂN CỦA VUA CHÚA
Nếu vua chúa có
ý định lấy vợ thì bộ lễ sức giấy cho các quan tỉnh quan huyện biết. các quan
phải đi khắp nơi kén người đẹp, Trứoc hết phải xem lá số tử vi của cô gái đó
xem có hợp với vua hay không, có bệnh tật gì hay không…sau đó dâng lên để nhà
vua xem.Khi vua đồng ý thì chuẩn bị cho người đẹp tiến cung. Nhờ cô gái đuợc
tiến cung mà làng xã đó cũng được thơm lây.
Khi hoàng tử đến
tuổi xuất phủ, vua sẽ chọn trong đám con gái các quan to trong triều xem ai đủ
“tiêu chuẩn”. Sau đó Bộ lễ sẽ tổ chức cho hoàng tử xem mặt người vợ tương lai.
Lúc công chúa
đến tuổi mười sáu, nhà vua sẽ ra lệnh cho Bộ Lại , Bộ lễ lập danh sách con cháu
những công thần nhất phẩm và nhị phẩm, đẹp trai, tài giỏi để vua xét. Trước
ngày cuới công chúa sẽ đựơc biết mặt chồng tương lai.
* LI DỊ
Ngày xưa đàn bà
không có quyền bỏ chồng còn đàn ông thì có quyền bỏ vợ. Có bẩy điều nếu phạm
phải, người đàn bà có thể bị chồng bỏ
1. Không con
2. Dâm tật
3. Không thờ cha mẹ chồng
4. Đa ngôn
5. Trộm cắm
6. Ghen tuông
7. Có ác tật
Ngoài 7 điều
trên người chồng có thể bỏ vợ người xưa cũng đặt ra 3 điều mà người chồng không
thể bỏ vợ_ gọi là tam bất khả xuất
1. Đàn bà đã từng chịu đại tang 3 năm ở nhà
chồng
2. Trứơc nghèo sau giàu
3. Nếu từ giã nhà chồng về nhà mình không còn
nơi nương tựa
* HÔN NHÂN VÔ HIỆU LỰC
Ngày xưa việc
cưới xin theo tục lệ bao giờ cũng có hiệu lực, tuy nhiên có 9 điều sau đây thì
mặc dù hôn lễ đã được cử hành vẫn cứ vô hiệu lực
1. Mạo hôn
2. Đem vợ (hoặc người hầu) cầm cho người ta làm
vợ hoặc đem vợ giả lam chị gái, em gái gả cho người khác
3. Đem vợ lẽ làm vợ cả( ngày nay là đã có vợ
rồi lại cưới vợ khác)
4. Trong lúc có đại tang cử hành hôn lễ
5. Bà con họ hang lấy nhau
6. Làm chức quyền ở nơi nào đó rồi dung quyền
hành ep người ta phải lấy mình
7. Lấy đàn bà có tội đi chốn
8. Thầy tu lấy vợ
9. Một phụ nữ lấy 2 chồng
2 . Lễ tang
Tang ma
Tang ma của người Việt, tuỳ theo từng vùng địa
lí và từng thành phần xã hội mà có những phong tục khác nhau.
Phép
chiêu hô
Khi một người
vừa nhắm mắt, thì người con trai cầm cái áo của người chết ấy,trèo lên mái nhà
gọi 3 tiếng 3 hồn 7 vía cha đâu về với con(hoặc 3hồn 9 vía me đâu về với con),
gọi xong xuống treo áo lên cửa, bây giời trai gái mới được khóc và mọi người
mới phát tang cho người chết.
Thiết
hồn bạch
Khi người chết sắp tắt thở lấy 7 vuông vải trắng
, để lên lưng hoặc bụng người, bao giờ tắt thở rồi mới đem ra kết làm thiết hồn
bạch, 1 đầu, 2 tay, 2 chân, giống như hình người, bao giờ nhập quan thì đem ra
để ban thờ.
Lập tang chủ
Thường là con cả
hoặc là cháu đích tôn, cha còn mà con có tang mẹ hay vợ thì cha làm chủ tang
cũng được
Lập
người hội lễ
Chọn người biết
lễ, các thành viên người nhà có tang phải tuân theo người hộ lễ bảo, chọn 1
người giữ tiền,1 người bên lễ phúng viếng và mọi thứ chi.
1.Lễ mộc
dục (Tắm gội)
Lúc tắm cho
người chết thường để sẵn một con dao nhỏ, một vuông vải nhỏ, một cái lược, một
cái thìa, một ít đất, nồi nước tắm ngũ
vị hương, và một nồi nước nóng khác,lúc tắm vây màn cho kín, người tang chủ vào
khóc rồi quỳ xuống “nay xin tắm, gội để sạch bụi trần.” cha thì con tria vào
tắm, mẹ thì con gái vào tắm, lấy vuông vải dấp vào ngũ vị, lau mặt lau mình cho
sạch rồi lấy lược chải tóc, lấy khăn khác lau 2 tay 2 chân, lấy kéo cắt móng
tay móng chân, mặc quần áo cho chỉnh tề. Móng tay móng chân gói lại trên để lên trên, duới để xuống dưới, để vào
trong quan tài , Dao , lược, thìa và nước đem đi chôn, rước thi thể đặt lên
giường.
Sau lễ mộc dục,
thời gian chưa nhập quan: Đắp chăn hoặc chiếu
buông màn, đặt một chiếc ghế con ở trên đầu, trên đó đặt một bát cơm úp,
một quả trứng , dựng một đôi đũa trên bát cơm và thắp hương.Có địa phương còn
có tục để một con dao trên bụng để trừ tà ma, hay quỷ nhập
2. Lễ
Phạn hàm
Lấy ít gạo nếp
sát cho sạch, một ít tiền , tang chủ vào
khóc, quỳ , người chấp sự cũng quỳ cáo từ rằng:”nay xin phạn hàm phục duy hâm
nạp”, tang chủ lấy cái thìa xúc ít gạo với 1 đồng tiền tra vào mồm để tránh tà ma và ác quỷ đến cướp đoạt, để
tiễn vong hồn đi đường xa được siêu thoát.
Lễ được tiến hành như sau:
Lấy một ít gạo
nếp sát cho sạch, vài đồng tiền( nhà
giàu thì dung vàng
hoặc viên ngọc
trai)
Tang chủ vào
khóc quỳ, người chấp sự cũng quỳ, cáo từ
rằng” nay xin phạn hàm, phục duy hâm nạp”.Người chấp sự lần lượt xướng” Sơ phạn
hàm. Tái phạn hàm, tam phạn hàm”. Tang chủ ba lần, mỗi lần xúc một ít gạo và
một đồng tiền tra vào mồm bên phải ,bên trái, rồi vào giữa, xong bóp mồm lại và
phủ mặt như cũ
3. Lễ khâm liệm nhập quan
Các con vào,
chấp sự xướng: tự lập(đứng gần vào) rồi khóc cả lên, quỳ xuống,cáo từ rằng nay
được giờ lành, xin rước nhập quan, cẩn cáo.Xong lại xướng: Phủ phục, hưng, bình
thân,.
Đồ khâm niệm:
nhà giàu dung nhiều vóc nhiễu, tơ lụa, nhà thường dùng vải trắng may làm đại
liệm hoặc tiểu liệm
Trước khi nhập
quan thưòng chọn giờ, tránh tuổi rồi dùng bùa dán trong quan tài .Có người chết
phải giờ xấu thì phải bỏ cỗ bài tổ
tôm,hoặc quyển lịch hoặc tàu lá gồi để trấn áp ma quỷ
Mọi việc xong
thì sơn gắn quan tài cho kĩ càng đặt chính giữa,nếu nhà còn người tôn hơn thì
đặt sang gian bên cạnh
Thiết
linh sáng
Là thiết lập
lịnh vị, đặt bàn thờ tang
Đặt cữu đã yên
vị, nhà rộng thì linh sáng để ở phía đông cữu, quây màn để gối cũng như lúc
sống,ngoài bày tế khí các đồ thờ vong
Thành
phục
Các mũ áo đồ
tang để vào cái mâm đặt trước án, người chấp sự xướng,tư lập cử ai chở từ 6
tháng trở lên đều vào mặc đồ, mặc xong chiểu
theo ngơi tiết hành lễ.
Trước khi thành
thục, nếu có khách đến thì người tang chủ chưa ra tiếp mà người hộ tang thay
mặt ra tiếp và thông cảm với khách.Sau
lễ thành phục mới chính thức phát tang. Sau đó thân bằng cố hữu, làng xã mới
đến phúng viếng.
Chiêu
tịch diện
Buổi sáng dậy
bưng khăn lược , các con vào quỳ khóc 3 tiếng, rồi quấn màn lên, người chấp sự
quì cáo từ rằng . Ngày đã sáng rồi, xin rước linh bạch ra linh toạ, rồi rước
hồn bạch ra đặt vào ỷ, vắt màn dọn chăn gối, buổi chiều các con vào trước án,
quỳ khóc 3 tiếng, chấp sự cũng quỳ cáo từ rằng: ngày đi đến chiều , xin rước
linh bạch vào nơi nghỉ , bình thân, rồi
rước hồn bạch đặt vào linh sàng, chăn áo
nệm buông màn xuống , thờ như lúc sống, ba ngày như vậy
Nghi
tiết
Tự lập, cử ai,
quán tẩy, thuế cân,nghệ hương án tiền, phần hương, án tiền, phần hương, châm
tửu, diện tửu, ai chỉ, giai quỳ, đọc chúc, phủ phục, hưng, bình thân, hưng,
bình thân, phục vị, phần văn lễ tất
Chung
thất(49-100 ngày)
Tuần chung thất
và 100 ngày, nghỉ tiết theo như nghỉ tiết ở trên chiêu tịch diện.
Văn
Năm... tháng...
ngày... cô tử(mẹ là ai tử) tên mỗ vì đến tuần chung thất(hay 100 ngày) kính sửa
chầu rượu cỗ bàn mọi vật dâng lên cố phụ... phủ quân vị tiền.
Than ôi! Thân
phụ mẫu đi đâu, vội vàng chi mấy, giời cao có thấu thảm thiết muôn phần thương
thay người đời giấc mộng hình ảnh ván, ngày tựa chim bay tiết vừa 49 thoi đưa
thấm thoát nay đã 7 tuần cây lặng gió lay. Khóc làm sao được thương cơm đĩa
muối gọi là đền ơn.
Đưa đám
Đi có thứ tự, đi
trước người cầm tiết mao, thứ hai đến đan triệu đến hương án nhà minh khí, án
thực, minh ninh, linh sa, công bố, tống tang, cữu bạch mộ.
Cừu bắp đến thì
hai người cầm mao thuần khua bốn các công phu lấy hia cái đòn để ngang trên
huyệt để đợi hạ cữu hai sợi dây để dòng xuống từ từ.
Hiếu chủ xem
thầy phân kim cẩn thận, dòng dây cho cữu xuống, người con đứng trước huyệt, vừa
khóc vừa... cữu hạ suống rồi các phu công cứ cách một thước lại nện cho kĩ,
nhưng chớ làm xê quan tài.
Huyệt làm được
nửa chừng thì tế hậu thổ.
TỐT KHỐC
(Trăm ngày)
Sau tam ngu gặp
ngày giáp, bính, mậu, canh, nhâm, là cương nhất tốt khốc, tế dùng cát lễ, nếu
ai còn quàn đến trăm ngày thì không được hành lễ tốt khốc, đến trăm ngày thì
dùng lễ chiêu tịch diện.
TIỂU
ĐƯỜNG(giỗ đầu) và ĐẠI ĐƯỜNG(giỗ đoạn)
Nghi tiết theo
như nghi tiết tốt khốc ở trên. Chấp sự xướng: Tự lập, cử ai, ai chỉ rồi các
con, các cháu vào cởi bỏ những vải sô khâu trước ngực, sau lưng đi, cởi bỏ
những quần dài không được để quét đất, áo thì bỏ những miếng ở sau lưng đi,
xong chiều nghi tiết hành lễ.
Đại đường cũng
xướng như vậy, các con vào đổi áo chàm khăn sô,chặt gậy, mũ áo đều bỏ cả.
CẢI TÁNG
Muốn cải táng
thì thân chủ cần phải làm mọi thủ tục cần thiết, như trong họ không có tang,xem
ngày giờ , xem đất, chuẩn bị tiểu, và các thủ tục cần thiết với cõi âm, công
việc thường được tiến hành trước khi mặt trời mọc sau khi chuẩn bị nghi thức
cúng thổ công nơi để mả mới.
Khi khai mả cũ,
phải nhặt hết xương, tẩy rửa thật sạch xương bằng rượu hay cồn , khâm niệm cho
vào tiểu mới,không để ánh sang mặt trời lọt vào tiểu. Khi chon mả mới mọi nghi
thức cũng tiến hành như khi hung tang song đơn giản và gọn gàng hơn
Lúc cải táng đều
mặc đồ để tang. Sở dĩ phải cải tang vì đất có 5 điều không hay
1. Mả vô cớ sụt thành đường
2. Mả cỏ khô héo chết
3. Trong nhà có dâm loạn, phong thanh mất
4. Trai gái hoá điên cuồng, hình hài , hoả tai,
chết choc
5. Người mất , của mất , sinh ra kiện tụng nhau
mãi
Bởi thế phải cải
tang tìm chỗ yên đất , trứoc một ngày
chủ nhân vào từ đường khấn , xin đến ngày nào khai mộ, trước lễ thần hậu thổ đã
lại cáo ở trước mới xong , rồi mới được khai phần
Lại có 3 điểm
không hay lên cải táng
1. Thấy có con rắn sống ở mả, hay khí vật gì
2. Thấy tơ hồng quấn quýt ở áo quan
3. Thấy nước trong như sữa mà hơi ấm, hay có khí
như sương mù, trong huyệt khô ráo không có kiến nước, như thế thấy có 3 điều ấy
thì chớ nên cải táng .
Cải tang xong ở
ngay trước mộ làm lễ ngụ tế cũng được
TANG PHỤC
Tang phục có 5
hạng theo đó mà để tang
1. Quần áo sổ gấu là đồ để tang cha mẹ, áo sô
khăn sô 3 năm, vợ để tang chồng cũng thế nhưng còn cha mẹ sống thì không chịu
sổ gấu mà vẫn để 3 năm.Con mà để tang mẹ mà cha còn sống, thì cũng không đựơc
sổ gấu
2. Cơ phục là để tang một năm
3. Cửu công là để tang 9 tháng
4. Tiểu công là để tang 5 tháng
5. Tỵ ma là để tang 3 tháng
TANG PHỤC CHA MẸ
Tang cha sinh ra
mình thì khăn áo sô sổ gấu để3 năm, gậy dung gậy tre
Mẹ sinh ra mình
thì vén gấu 3 năm, dung gậy bằng gỗ vông
Nếu cha đã mất
trước rồi thì tang mẹ cũng được mặc sổ gấu
Cô ,dì , chú ,
bác, thím,…là anh chị em ruột với cha mẹ thì để tang 1 năm
TANG PHỤC BẦY
VAI
1. Vợ thì tang 1 năm có gậy, nếu cha mẹ còn sống
thì không có gậy
2. Anh chị em ruột thì đều một năm, chị dâu , em dâu thì 9 tháng.
nếu chị ,em đi lấy chồng mà chồng chết hay bỏ , con lại không có thì tang 1 năm
3. Anh chị em con chú con bác ruột thì 9 tháng, vợ anh,chị em ấy đã đi lấy chồng thì
5 tháng.
4. Anh chị em họ 4 đời thì 5 tháng, chị dâu em
dâu áy thì 3 tháng
5. Anh chị em họ 5 đời thì thì 3 tháng. vợ anh
chị em đấy đã xuất giá thì thôi
6. Anh chị em cùng mẹ khác cha thì 5 tháng ,vợ
của anh chị em ấy thì không tang
TANG VỀ HÀNG CON
1. Con cả con thứ đều tang 1 năm không gậy, nàng
dâu cả cúng 1 năm, dâu thứ cúng 9 tháng, dù con nào đi làm con nuôi nhà người
cũng thế
2. Con gái thì tang 1 năm, đã xuất giá rồi thì 9
tháng. Nhưng nếu xuất giá rồi mà chồng bỏ, chồng chết mà con không có thì tang 1 năm
3. Con rể thì để tang 3 tháng
4. Cháu giai họ là con của anh em thì 1 năm, vợ
cháu giai ấy thì 9 tháng
5. Cháu giai gái nhà chú bác thì 5 tháng,
vợ chồng của họ thì 3 tháng, cháu gái dã
xuất giá thì 3 tháng
6. Chắt giai gái ông chú bác thì 3 tháng, vợ
chắt ấy cùng cháu gái đã xuất giá rồi thì thôi
TANG VỀ HÀNG
CHÁU
1. Cháu giai đích tôn thì 1 năm,vợ cháu giai ấy
thì 5 tháng
2. Các cháu giai gái thứ thì 9 tháng,vợ các cháu thứ thì 3 tháng
3. Cháu giai gái nhà anh em thì 5 tháng, vợ cùng
người cháu gái đã xuất giá thì thôi
Chồng để tang
cha mẹ vợ 1 năm,anh chị em bên vợ thì không phải để tang
Thầy dạy không
tang
Anh em ban bè
trong ngũ luân cũng là một thì tang 3 tháng
TRỌNG TANG GẶP
TRỌNG TANG
Đang có tang cha
chưa xong , khong may lại bị đến mẹ thì ngay lúc trừ tang cha, mặc đồ trừ tang
làm lễ đại tường, làm xong thì mặc đồ tang mẹ
Đang có tang mẹ
mà bị tang cha cũng thế.
TRỌNG TANG GẶP
KHINH TANG
Đang có tang cha
mẹ mà gặp phải tang anh em, dẫu 3 tháng là khinh tang cũng đến mà khóc, đến lúc
thành phục, thì mặc áo tang mà khóc, đến mùng môt đầu tháng đặt bàn thờ mà
khóc, xong rồi thì lại phải mặc đồ tang cha mẹ
Còn người đi xa
xứ, biết tin thì khóc ngay ở đó , đến hôm sau vao fbuổi sớm thì mặc đồ tang
người mới chêt, chưa thành phục thì ngày hôm sau lập bàn thờ nhà khác mà khóc, khó xong lại phải mặc đồ
trọng tang
TANG VỢ CON GẶP
TANG ANH EM
Đang có tang vợ
con mà gặp tang anh em dẫu có 3 tháng cũng lên đi thăm
TANG VÀ
LỄ CƯỚI XIN
Người ta trong
lễ từ để tang trong một năm trở lên, hễ cử tang đi rồi mới cưới xin được.Nghĩa
là người ta trai gái dẫu có tang từ 9 tháng,5 tháng,3 tháng dẫu chưa hết nếu đã
chọn ngày rồi thì đều cưới xin dược cả. duy có người tang 9 tháng thì không làm
chủ hôn được
BẮC CẦU
GIẢI OAN
Theo quan niệm
truyền thống con người rất sợ lúc chết
sẽ thành những vong hồn cô quả, không có ai hương khói cúng bái giỗ chạp, quanh
năm làm thân ma đói,chờ dịp cúng thí cô hồn phải đi tranh cướp cháo,nhặt nhạnh
những của vung vãi sau mỗi lễ cúng.
Lễ bắc cầu giải
oan cho vong hồn nhằm chiêu hồn người bị nạn để dẫn hồn vào ăn mày nhà chùa.
Cho nên nơi làm lễ phải tiến hành ngay ở nơi oan hồn bị nạn, nếu chết đuối làm
lễ ở bờ song, chết xe cộ thì làm lễ ở nơi xảy ra sự cố
Lễ bắc cầu giải
oan chỉ là một nghi lễ, là lễ cầu cúng dẫn độ linh hồn từ nơi lâm nạn về chùa
bằng lễ cúng, tụng kinh giải oan theo quan niệm phật giáo.
1. Đặt 2 bàn thờ
Một bàn thờ hà
bá, âm phủ để dẫn hồn sứ giả và chư thần đặt trong một lọng đình, với 2 chiếc
mũ. Mũ trắng là mũ hà bá, mũ vàng là mũ âm phủ.
Một bàn thờ vong
linh nạn nhân,dặt trên một bàn gỗ, có ảnh hay bài vị nạn nhân, một dĩa đặt 2
đồng tiền để xin âm dương, ngoài ra trên haibàn thờ này còn đặt thêm các đồ lễ
thông thường khác
2. Một gương chiếu, đặt trên một tấm ván nhỏ, kê
trên đòn tay long đình, gương dùng để khai quang
3. Một cây kim tích trượng, là cây gậy làm bằng
gỗ tượng chưng cho dấu hiệu của đức địa Tạng Vương Bồ Tát, Bồ tát dung cây gậy
này để làm rung chuyển cõi âm.phá khoá ngục để cứu vong hồn khỏi bị đầy ải,
nhằm giúp vong linh đi đến cõi phật.
4. Một thần than (cây than thần), làm bằng giấy
hình chữ nhật, trên đầu có dấu ấn nhà phật, chia làm ba phần theo chiều dài,
phần giữa ghi tên họ,nghề nghiệp nạn nhân. Phần bên phải ghi ngày tháng năm
sinh, phần còn lại ghi ngày mất. phần than buộc vào cành tre. Khi hồn nạn nhân được giải oan bắc
cầu sẽ nhập vào cành than, dưới sự che cho của Bồ Tát được tuợng trưng bởi cây
kim tich trượng
5. Một hình nhân, làm bằng đồ mã dùng để thế
mạng cho nạn nhân, trên ngực hình nhân có hàng chữ “Hình nhân nhất tương thế
mênh,X quý ông huý. Sau buổi trưa , hình nhân được ném xuống song
6. Một cầu vải, được gọi là cầu hồn bắc từ sông
lên nhưng chưa chạm tới mặt nước, đến tấm ván đặt gương khai quang, cầu vải có
6 xà ngang bằng que tre.
7. Một chiếc thang bằng dọc lá chuối , bắc vào
cầu hồn, nơi xà ngang cuối cùng của xà vải,chân thang ngâm xuống mặt nước, vong
hồn nạn nhân sẽ theo thang này đi lên cầu vải.
8. Bảy lá cờ làm bằng giấy , cắm dọc theo cầu vải vào ngay chỗ có
các cọc đỡ xà ngang bằng tre,, trên mỗi lá cờ ghi một lời chú hay lệnh của Địa
Tạng Vương cho hà bá và các sứ giả để đi tìm hồn vía của các nạn nhân.
9. Một con thần kê, tức là con gà trống
nhốt trong lồng đặt bên thần tượng ,
dưới cầu vải.Pháp sư cho gà nuốt một lá bùa để gà có phép linh tìm được vong
hồn nạn nhân, bởi gà trống có đủ 5 đức tính cao quý: vân, vũ, dũng, nhân, và
tín. Gà trống nuốt bùa lên đã trở thành gà thần (thần kê)
10. Một nồi bùa, là nồi đất có đậy vung , ở trong
đựng bùa , trên vung chèn một hòn gạch nặng phòng mãnh lực từ trong nồi phát
ra, dễ gây tai nạn cho người thân người bị nạn cho thân nhân người bị nạn
11. Một chiếc thuyền neo ở bờ sông dù, sẽ dùng trong lúc làm lễ, sẽ
chở nồi búa, hình nhân và thần kê ra giữa sông rồi ném xuống dòng nước.
Theo truyền
thống thì pháp sư làm chủ lễ . chủ lễ và 2 phụ tá ngồi trên một chiếc chiếu đặt
bên phải bàn thờ,giữa bàn thờ với sông.còn gia chủ vơí thân nhân nạn nhân ngồi
trên một chiếc chiếu khác, quay mặt về cùng một phía với chủ lễ.Vào lễ pháp sư
đọc sớ khấn xin hà bá chiêu hồn nạn nhân, và cuối cùng là đọc sớ khấn vong hồn
nạn nhân. Trong khi đọc sớ pháp chủ và phụ tá làm phếp và đọc sớ và cho hoá
ngay,sau đó pháp sư dẫn vong hồn nạn nhân nhập vào cành phan.Tiếp nữa là lễ
khai quang.mục đích là với lễ này tấm gưong sẽ làm cho hồn pháchnạn nhân sẽ trở
lại sáng suốt .Sau lễ khai quang pháp sư cùng với những người hành lễ xuống
thuyền với hình nhân lâm nạn, phấp sư
cầm thần kê niệm chúa, phụ tá đánh trống, rồi ném hình nhân và cả thần kê xuóng
sông, và cuối cùng nồi bùa cũng được ném xuống sông, trong lời khẩn cầu liên
miên của pháp sư. lễ bắc cầu khai oan cho nạn nhân đựơc hoàn tất.
VĂN KHẤN GIỖ CHA
MẸ
Năm … tháng…
ngày .. con nói tên … vì nay ngày kỵ, lễ bạc lòng thành, kính dâng hiến khao…
trước bàn thờ rằng.Công sinh thành như núi thái sơn, ngày huy kỵ xin dâng lễ
vật, xin linh hồn chứng dám, hộ con cháu bình yên,cẩn cốc..
3 . Sinh
dưỡng
Tục xin quần áo
cho trẻ sơ sinh
Là xin để lấy
khước may .Người mẹ tư khi mới thụ thai đã để ý xem trong bà con , hàng xóm ai
có con cái bụ bẫm , ít quấy , ít khóc , ao ước con mình đẻ ra cũng được như vậy
thì xin một cái áo hay cái quần , cái tã cũ của đứa bé đó về sửa sang để dùng
cho con mình .
Nguyên ngày xưa
ta chưa có những thứ vải mỏng mnj bán rộng rãi trong dâ gian , thị trường toàn
những vải thô , cứng trẻ con mặc dễ bị xây xát , mà lại dễ bị đau yếu . Nhà
nghèo không sẵn tiền mua đã đành , người giàu cũng xin áo cũ cho trẻ sơ sinh là
thế . Trẻ thì chóng lớn , quần áo lâu mới rách , chỉ vài tháng sau mới rách ,
người ta không nỡ phá mà giữ lại dành cho trẻ khác . Vì vậy người cho áo cũng
cảm thấy vinh dự đươc người khác quí mến con mình và coi đứa bé sắp ra đời cũng
có phần hơi hướng giống con mình .
Khi mới đẻ chưa
đặt tên chính:
Ngày nay đẻ ra
là khai sinh , có thủ tục quản lí hộ tịch chặt chẽ , Nhà nước chỉ quan tâm đến
sổ đinh ( từ 18 tuổi ) , sổ điền để thu thuế và bắt lính , bắt phu vì vây vào
sổ làng càng muộn càng hay , lớn lên đỡ được vài năm thuế thân , phu phen tạp
dịch .
Trong xã hội cũ
tinh trạng hữu sinh vô dưỡng khá phổ biến , ít có gia đình sinh năm đẻ bảy đựơc
vuông tròn , vì vậy qua các tuần cữ mới tạm yên tâm , khi đó mới đặt tên húy (
là tên chính ) .
Các họ tế tổ mỗi
năm một lần . Trong dịp đi tế tổ , các gai đình có con cháu mới sinh sắm sửa
cơi trầu , chai rượu , hương hoa , lễ vật đến nhà thờ họ yết cá tiên tổ và vào sổ họ , ngày đó
mới có tên húy chính thức , được họ hàng công nhận . Trong khi vào sổ họ phải
đối chiếu gia phả để xem có trùng tên các vị tiên tổ hoặc ông bà chú bác trong
nội thân hay không , nếu có tức là phạm húy thì phải đổi tên . Không những phải
tránh phạm úy tổ tiên bên nội mà phải tránh phạm úy can cụ ông bà ngoại mặc dầu
khác họ , tránh phạm úy các húy hiệu của thành hoàng , thánh mẫu , linh thần
từng địa phương . Ở nông thôn cac vị có uy vọng trong làng , trong họ thường
được dân chúng biếu trầu rượu và nhờ đặt tên cho con . Người đặt tên được gia
đình đó nhớ ơn suốt đời .
4 . Giao
thiệp
* Miếng trầu là
đầu câu truyện
Miếng trầu tuy
rẻ tiền nhưng chứa đựng nhiều tình cảm , ý nghĩa , giàu nghèo ai cũng có thể ,
vùng nào cũng có . Miếng trầu đi đôi với lời chào , người lịch sự không “ ăn
trầu cách mặt ” nghĩa là đã tiếp thì
tiếp cho khắp .
Tiện đây ăn một
miếng trầu
Hỏi rằng quê
quán ở đâu chăng là
“ Đầu trò tiếp
khách ” là trầu , ngày xưa ai chẳng có , hoc chăng riêng Tú Xương mới “ Đầu trò
tiếp khách trầu không có . Bác đến chơi nhà ta với ta ”
Quý nhau mời ,
ghét nhau theo lịch sự cũng mời nhau ăn trầu nhưng “ cau sáu bổ ra thành mười ”
Hơn nữa trầu cau
còn là biểu tượng của sự tôn kính , phổ biến dùng trong các lễ tế thần , tế gia
tiên , lễ tang ,lễ cưới ,lễ thọ ,lễ mừng …nên têm trầu cũng đòi hỏi phải có mĩ
thuật , nhất là lễ cưới có trầu têm cánh phượng , có cau tróc vỏ trổ hoa . “
cau già dao sắc ” thì ngon . Bày cau trên đĩa , hạt cau phải sóng hàng , trầu
vào giữa , đĩa trầu bày năm hoặc mười miếng ,khi đưa mời khác phải bưng hai tay
. Tế gia tiên trầu têm , còn tế lễ thiên thần thì phải 3 lá trầu phết một tí
vôi trên ngọn lá và 3 quả cau để nguyên .
* Xuất xứ của
tục nhuộm răng và cách nhuộm răng
Đây là tục cổ
xưa của dân tộc Việt có từ thời các vua Hùng với tục ăn trầu . Sứ thần nước Văn
Lang trả lời vua nhà Chu : “ Chúng tôi ăn trầu để khử mùi ô uế và nhuộm răng
cho đen ” . Khiếu thẩm mĩ của con người cũng tùy theo đặc điểm dân tộc ở châu
Phi hay Ấn Độ thì da càng đen càng đẹp . Nước ta ngày nay chẳng ai nhuộm răng
đen nữa nhưng ngày xưa “ bõ công trang điểm má hồng răng đen ”
Năm quan mua lấy
miậng cười
Mười quan chẳng
tiếc , tiếc người răng đen
Cách nhuộm răng
đen : trước hết dùng cánh kiến tán nhỏ , vắt nước chanh để kín 7 ngày , chờ tối
đi ngủ phết thuốc ấy vào hai mảnh lá dừa hoặc lá cau rồi ấp vào 2 hàm răng .
Trong khi nhuộm răng thì phải kiêng nhai . Nhuộm như thế 5 đến 7 hôm cho răng
đỏ ngà ra màu cánh gián thì bôi thuốc răng đen . Thuốc răng đen làm bằng phèn
đen trộn với cánh kiến , nhuộm 1,2 miếng là đen kịt lại , đoạn lấy cái vỏ dừa
để lên con dao mà đốt cho chảy nhựa ra ,
lấy nhựa ấy phết vào răng cho không nhai ra được nữa .
5 . Đạo hiếu
Tục khao lão
Bây giờ đến bậc
ăn dưng nhỉ
Có rượu thì ông
chống gậy ra
( Nguyễn Khuyến
)
Lên lão cũng
phải khao .Những nhà giàu có thường nhân dịp này bày tiệc ăn mừng thọ tế lễ ,
ăn uống linh đình . Tế sống cha mẹ , có văn chúc thọ với ban tư văn hành lễ trợ tế . Cha mẹ
ngồi phía trong , con trai ,gái ,dâu , rể , cháu chắt , phân thứ bậc trên dưới
đứng hai bên , nam bên trái , nữ bên phải , làm lễ tế ba tuần rượu , có tấu nhạc trọng thể , vui vẻ
. Tế sống cha mẹ mỗi lần 2 lạy , khác tế thần , tế tổ mỗi lần 4 lạy .Ở đất văn
vật , bài văn tế chúc thọ thường là cả một công trình giấy mực , có khi người
trong làng nô nức đến xem tế và nghe đọc văn .
Có đám mừng thọ
mời bà con họ hàng làng tổng , tiệc tùng hai ba bốn ngày .
“ Phú qúy sinh
lễ nghĩa ” có nhiêu nhà làm lễ mừng thọ cha mẹ lên lão 70 , 80 ,, 90 tuổi …
Không phải bắt buộc nhưng giàu có bày ra thiết đãi mọi người đến chia vui ,
đồng thời làm vui lòng bố mẹ , tưởng cũng là tuc hay có thể khiến cho những kẻ
nhẹ tình hiếu thảo , không lo phụng
dưỡng cha mẹ cho được tuổi thọ như ngườio phải lấy làm hổ thẹn và suy nghĩ .
7 . Vấn đề chọn
ngày giờ
Xem ngày , kén
giờ :
Việc cưới xin ,
việc làm nhà cửa , khai trương cửa hàng , nhập học , mai táng , cưới xin … Tất
cả đều phải xem ngày kén giờ , nhất là đầu năm mới bắt đầu làm việc gì , hoặc
động thổ , hoặc xuất hành , khai bút … đến những việc nhỏ nhặt như cạo đầu xỏ
tai cho trẻ con , việc tắm gội , may áo cũng có người cẩn thận quá cũng kén ngày …
Kén thì phải xem
đến lịch . Sách
lịch do tòa khâm thiên giám soạn ra . Mỗi năm về ngày mồng một tháng Chạp ,
Hoàng đê ngự điện khai trào , các quan khâm thiên giám cung tiến Hiệp kỉ lịch ,
rồi khâm mạng vua mà ban lịch đi khắp nơi…
Ban lịch trọng nhất tiết khí , tháng
thiếu tháng đủ , ngày tốt ngày xấu để tuân hành được đều nhau .
Đại để ngày nào có nhiều sao cát tinh như thiên đức , nguyệt đức , thiên
ân , thiên kỉ … hoặc là ngày trực khai , trực kiến , trực bình , trực mãn thì
là ngày tốt . Ngày nào có những sao hung tinh như sao trùng tang , phùng phục ,
thiên hình , nguyệt phá thì là ngày xấu .
Kiêng nhất là ngày sát chủ , ngày phụ
tử , việc gì cũng phải tránh . Mỗi tháng có ba ngày là ngày năm , mười bốn và
hai mươi ba , gọi là ngày nguyệt kỵ , việc gì cũng nên kiêng mà nhất là kiêng
sự nhập phòng . Trong một năm lại có muời ba ngày gọi là ngày Dương công kỵ
nhật , hết thảy việc gì cũng phải tránh , những ngày ấy là :
Ngày 13 tháng giêng
Ngày 9 tháng ba
Ngày 5 tháng năm
Ngày 8 , 29 tháng bảy
Ngày 25 tháng chin
Ngày 21 tháng một
Ngày 11 tháng hai
Ngày 7 tháng tư
Ngày 3 tháng sáu
Ngày 27 tháng tám
Ngày 23 tháng mười
Ngày 19 tháng chạp
Ngoài ra phàm việc lại cần kến ngày
hợp mệnh mà kiêng ngày tuổi
Ngoại giả còn những ngày thập linh ,
ngày đức hợp là tốt , ngày thập ác đại bại , ngày tứ ly , ngày tứ tuyệt là xấu
Mấy viêc dân gian cần dùng nên kiêng
kị :
Cưới xin nên tìm ngày thiên đức ,
nguyệt đức , kị ngày trực phá , trực nguy . Làm nhà nên tìm ngày thiên ân ,
thiên kỉ , kị thiên hỏa , địa hỏa và ngày lim lâu . Xuất hành nên tìm ngày lộc
mã , hoàng đạo , kị ngày trực phá , trực
bế . An tang nên tìm ngày thiên hỷ , thiên đức , kị ngày tử khí quan phù …
Còn như kén giờ thì việc gì lúc mới
bắt đầu như lúc mới xuất hành , lúc mới ra ngõ đi cưới , lúc mới dựng nhà , hạ
huyệt … thường đều kén lấy giờ hoàng đạo . Phép tính giờ hoàng đạo phải nhớ 4
câu :
Dần , thân gia tý ; mão dậu dần ;
Thin , tuất tầm thin ; tý , ngọ thân
;
Tỵ , hợi thiên cương tầm ngọ vị
Sửu mùi tong tuất định kì chân
Lại cần phải nhớ 2 câu :
Đạo viễn kỉ thời thông đạt
Lộ dao hà nhật hoàn trình
Lúc đánh giờ trước hết phải biết ngày
gì , rồi dùng hai câu thơ dưới mà bấm giờ ở bốn câu thơ trên . Hễ bấm mà gặp
cung nào có chữ “ đạo , viễn , thông , đạt , dao hoàn ”, thì giờ ấy là hoàng
đạo .
Xét phép chọn ngày , từ đời Đường ,
Ngu , Tam Đại đã có . Song khi bấy giờ thì chỉ tùy việc mà chọn ngày : nội sự
dụng nhu , ngoại sự dung cương . Nội sự là việc trong như việc tế tự , cưới xin
…thì dùng những ngày âm can là các ngày : ất , đinh , kỉ , tân , quý . Ngoại sự
là việc ngoài như đánh dẹp , giao thiệp …thì dùng những ngày dương can là các
ngày : giáp , bính , mậu , canh , nhâm . Dùng như thế chỉ có ý : làm việc êm ái
, hòa nhã thì theo về ngày âm , việc cứng cáp mạnh mẽ thì theo về ngày dương ,
nghĩa là kén lấy ngày có chút ý nghĩa hợp với nhau mà thôi .
Đến đời sau các nhà âm dương thuật số
mỗi ngày mới bày thêm ra ngày sao tốt , ngày sao xấu , ngày này nên làm việc nọ
, ngày kia nên làm việc kia . Hết ngày rồi lại xem có giờ sinh , giờ hợp , giờ
xung , giờ khắc , động làm việc gì cũng phải xem ngày , kén giờ , thực là một
việc phiền toái quá . Đã đành làm việc gì cũng nên để lòng cẩn thận nhưng cũng
không nên câu lệ chọn ngày , kén giờ quá .
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét